Quyển 1 - Chương 6 - "Ý nghĩa của bốn mươi hóa diệu",
ứ Hóa là Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Hóa Kị, chúng căn cứ vào thiên
can mà phi hóa, bốn hóa tinh này không tự thành sao được, mà phải dựa
vào sao khác để biểu thị. Đây là nhân tố quan trọng để luận đoán cát -
hung.
Khẩu quyết an tứ Hóa của Trung Châu phái
Giáp Liêm Phá Vũ Dương, Ất Cơ Lương Tử Âm
Bính Đồng Cơ Xương Liêm, Đinh Âm Đồng Cơ Cự
Mậu Tham Âm Dương Cơ, Kỷ Vũ Tham Lương Khúc
Canh Dương Vũ Phủ Đồng, Tân Cự Dương Khúc Xương
Nhâm Lương Vi Phủ Vũ, Quý Phá Cự Âm Tham
1- Liêm trinh - can Giáp hóa Lộc
Liêm trinh là sao thuộc về cảm tính, cho nên không đại biểu cho ham muốn
vật chất. Khi Liêm trinh hóa Lộc, tính chất hưởng thụ tinh thần vẫn
nhiều hơn tính chất hưởng thụ vật chất. Do đó trong sinh hoạt ắt sẽ chịu
tiêu sài, lấy mức sống cao để tạo sự thuận lợi về hưởng thụ tinh thần,
tất nhiên sẽ không keo kiệt.
Nhìn bề ngoài, Liêm trinh thích tiêu xài giống Tham lang, nhưng thực ra
bản chất khác nhau. Sự tiêu xài của Tham lang thuần túy thuộc tửu sắc,
còn sự tiêu xài của Liêm trinh thì thuộc "phong hoa tuyết nguyệt", tính
chất thanh nhã hơn, khá xem trong tinh thần và cảm tính.
Liêm trinh thường có sắc thái thủ đoạn, cho nên khi Liêm trinh hóa Lộc,
cũng chủ về dùng thủ đoạn để tiến thủ, như giao tế thù tạc, kết bè bết
phái, .v.v...
Lúc Liêm trinh hóa Lộc, lại gặp các sao Hung - Sát - Hình, sẽ chủ về tửu
sắc. Dùng thủ đoạn càng nhiều thì thù tạc càng nhiều, nhưng cuối cùng
chẳng thu hoạch được gì, mà trong công việc làm ăn, còn bị rơi vào tình
trạng thiếu hụt tiền bạc. Nếu lại còn gặp các sao đào hoa, thường thường
sẽ vì sắc mà phá tài. Nhưng lúc Liêm trinh hóa Lộc gặp đào hoa, mà
không có các sao Sát - Kị, thì lại chủ về nhờ có thù tạc trăng gió, mà
được hiến thân hoặc đắc tài lộc.
Liêm trinh hóa Kị ở nguyên cục (can Bính), lại hóa Lộc ở đại vận hoặc
lưu niên, thường chủ về có hoạnh tài (như đầu tư, đầu cơ, cờ bạc,
.v.v...), nhờ có tài lộc nên rất vui vẻ hạnh phúc.
Tinh hệ "Liêm trinh Thiên tướng" có Liêm trinh hóa Lộc thủ Mệnh ở hai
cung Tý hoặc Ngọ, đối cung ắt sẽ là Phá quân hóa Quyền, cung Quan là Vũ
khúc hóa Khoa, thì chủ về tuy làm chức phó, nhưng lại thường kiêm nhiệm
trọng trách và nắm giữ quyền hành
Đại hạn hoặc lưu niên đến cung hạn này, thường sẽ chủ về chuyển biến
theo hướng tốt lành, nhưng nếu Thái dương hãm tại cung Tị hóa Kị (can
Giáp) ở cung Nô, xung chiếu Cự môn ở Hợi cư Huynh đệ, thì cũng đồng thời
chủ về quan hệ giao tế chuyển biến theo hướng xấu. Tinh hệ "Liêm trinh
Thiên tướng" mang đậm sắc thái chính trị, nên quan hệ giao tế càng thêm
quan trọng. Không thể không chú ý các sao phối hợp.
Tinh hệ "Liêm trinh Thất sát" có Liêm trinh hóa Lộc thủ mệnh ở hai cung
Sửu Mùi, có Đà la đồng độ, hoặc có Kình Đà vây chiếu, ắt cũng sẽ đồng
thời có Hóa Quyền, Hóa Khoa hội hợp đủ Khoa Quyền Lộc, cung Quan là Phá
quân hóa Quyền, Vũ khúc hóa Khoa ở cung Tị hoặc Hợi, thanh thế cũng cực
hiển hách, quyền lực và nhiệm vụ lớn hơn "Liêm trinh Thiên tướng". Đối
cung mệnh ở Sửu là Thiên phủ ở Mùi có bản chất ổn định, cung Tài có "Tử
vi Tham lang" chủ về tiêu xài, cho nên toàn bộ kết cấu tinh hệ có mức độ
tài lộc rồi dào hơn tinh hệ "Liêm trinh Thiên tướng". Đà la thì sinh
lần nữa, nhưng lúc này cung Huynh là Thiên lương cư Tý, đối cung với
cung Nô là Thái dương cư Ngọ hóa Kị, quan hệ giao tế so với mệnh "Liêm
trinh Thiên tướng" thì lại cần phải chú ý hơn, thường dễ phạm pháp,
tranh chấp, cho đến âm mưu ...
Liêm trinh độc tọa thủ mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà hóa Lộc, có Lộc
tồn cùng bay đến hoặc vây chiếu, cung Quan tại Ngọ hoặc Tý là tinh hệ
"Thiên phủ Vũ khúc" trong đó Vũ khúc hóa Khoa (can Giáp), thì chủ về
tiền bạc có uy tín, hoặc thích hợp nắm quyền tài chính. Nhưng Liêm trinh
đối nhau với Tham lang (Dần Thân), làm nặng thêm tính ham muốn vật chất
của Liêm trinh, vì vậy cũng dễ thành xem trọng hưởng thụ vật chất. Về
sự nghiệp thì thích hợp với các nghề liên quan đến nghệ thuật, giải trí,
vui chơi, tiêu dùng, làm việc trong chính giới hoặc mậu dịch càng tốt.
Tinh hệ "Thái dương Thái âm" thủ cung Nô tại Sửu Mùi, mượn nhập cung
Huynh đệ, chủ về người dưới quyền nhiều mà không ổn định.
Tinh hệ "LIêm trinh Phá quân" thủ mệnh ở hai cung Mão Dậu, trong đó Liêm
trinh hóa Lộc đồng độ với Phá quân hóa Quyền, có Kình dương đồng cung,
hoặc Kình Đà vây chiếu. Quyền Lộc gặp nhau, chủ về cảnh ngộ thay đổi,
cung Quan là tinh hệ "Vũ khúc Tham lang" mà Vũ khúc hóa Khoa, càng làm
mạnh thêm tài vận của "Liêm trinh Phá quân", cung Tài là tinh hệ "Tử vi
Thất sát" cũng hữu lực, tam phương có Quyền Lộc rất nặng. Đối cung Mệnh
là Thiên tướng tại Mão, bị "Cự môn Thái dương" có Thái dương hóa Kị, và
Thiên lương của Cơ Lương tại Thìn giáp cung gây ảnh hưởng, khiến "Liêm
trinh Phá quân" cũng dễ bị các tình huống trắc trở ngầm mai phục. Nhân
tố chắc trở của cung mệnh này chủ yếu là tình cảm. Đặc biệt là Thiên phủ
ở cung Phúc (Tị Hợi) hội hợp với Thiên tướng bị sao Hình - Kị giáp
cung, chủ về khó giữ được sự thận trọng. Vì vậy cần phải duy trì thành
tựu đã đạt được mới cát lợi.
Tinh hệ "Liêm trinh Thiên phủ" khi Liêm trinh hóa Lộc ở hai cung Thìn
hoặc Tuất, có Vũ khúc hóa Khoa của tinh hệ "Vũ khúc Thiên tướng" ở cung
Quan tương hội, đối cung là Thất sát, Tài cung là Tử vi độc tọa. Tính
chất của toàn bộ tinh hệ này, thích hợp làm việc trong chính giới, hay
trong quân đội, cảnh sát, vì mệnh tạo này ứng với người kiêm văn võ, có
thể công và có thể thủ, còn giỏi quản lý tài chính. Có điều cung Quan
thiếu lực để ngồi ở vị trí tối cao mà thôi.
Tinh hệ này còn có một đặc điểm, vận tuổi trẻ bát lợi, đến 5 năm cuối
của đại hạn thứ 3 mới bắt đầu khởi sắc. Cứ mỗi đại hạn, thì 5 năm cuối
sẽ tốt hơn 5 năm đầu, thậm chí mỗi năm, nửa năm cuối cũng tốt hơn nửa
năm đầu. Đây là vì "Liêm trinh Thiên phủ" ở cung "thiên la địa võng",
cho nên mọi lợi ích đều chủ về từ từ.
Khuyết điểm của mệnh bàn này là ở cung Huynh đệ, cung Nô và cung Phu
thê. Đặc biệt đối với nữ mệnh, thì cần phải xem trọng tâm trạng của
người phối ngẫu.
Tinh hệ "Liêm trinh Tham lang" khi Liêm trinh hóa Lộc ở hai cung Tị Hợi,
cung Quan có "Vũ khúc Thất sát" hóa Khoa, cung Tài là "Tử vi Phá quân"
hóa Quyền có kèm Đà la hoặc hội hợp với Kình Đà, chủ về tính chất không
giữ được đất đai nhà cửa của ông bà, cha mẹ, mà phải tự lập. Cho nên ở
đại hạn tốt hơn ở tam phương của nguyên cục.
Kết cấu tinh hệ này thích hợp với các nghề liên quan đến nghệ thuật,
hoặc công nghệ, gặp đào hoa cũng có thể thích hợp với sự nghiệp nghệ
thuật, hoặc ngành giải trí, vui chơi, tiêu dùng. Có điều cung Tài là "Tử
vi Phá quân" đồng độ với Đà la, chủ về kiếm được tiền nhưng có hiện
tượng kéo dài và khó tích lũy, còn chủ về bản thân không muốn thù tạc mà
phải tiêu xài quá lớn. Cung Phu thê là Thiên phủ, nếu cung Mệnh hoặc
cung Phúc có các sao "đào hoa", cũng chủ về tái hôn nhưng vợ chồng cũ
vẫn còn vương vấn tình cảm, chưa dứt khoát. Thái dương hóa Kị đến cung
Nô (cung giao hữu) chủ về không đắc lực, mà còn có tranh chấp ngầm.
2- Thiên Cơ - can Ất hóa Lộc
Bản chất của Thiên cơ là mưu chí, linh động quyền biến mà còn nhạy bén.
Cho nên khi Thiên cơ hóa Lộc ắt sẽ "chủ động" tìm được ra cơ hội để tạo
thành sự nghiệp, vì vậy mà được lợi ích.
Nhưng mưu trí và linh động quyền biến của mệnh tạo ít có phách lực (kim
chứa phách) khai sáng sự nghiệp lớn, mà thường thành người khéo đầu cơ,
cho nên vẫn bị giới hạn khá lớn, ảnh hưởng đến thành tựu của sự nghiệp
và tiền bạc. Thiên cơ hóa Lộc, chỉ là nhân tài tham mưu, cố vấn chiến
lược, chủ về kế hoạch, thiết kế, hoặc làm công việc đi đây đi đó cho
người khác (như làm môi giới, thuyết khách, ...)
Do bản chất thích biến động, nên cũng khó giữ một nghề, ưa đứng núi này
trong núi nọ. Cho nên hễ Thiên cơ hóa Lộc ở cung mệnh, cần phải đồng
thời lưu ý các sao ở cung Phúc và các sao ở cung Quan, các sao này phải
có tính chất ổn định và có lực tiến thủ mới tốt. Nếu tính chất các sao
thuộc loại không ổn định mà còn mang tính do dự, thiếu quyết đoán, sẽ
ảnh hưởng đến Thiên cơ hóa Lộc ở cung Mệnh, khiến thành tựu của người
này bị nhiều hạn chế.
"Tiền tài" của Thiên cơ hóa Lộc không thể giữ được lâu, vì vậy, nếu cung
điền trạch tốt, thì nên chú ý cơ hội mua thêm nhà cửa đất đai, nếu
không phải xem cung Phu thê có các sao chủ về tài phú hay không.
Thiên cơ độc tọa hóa Lộc ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung là Cự môn,
cung Tài là tinh hệ "Thiên đồng Thiên lương" có Thiên lương hóa Quyền
(can Ất), cung Quan là Thái âm độc tọa hóa Kị hoặc kèm có Kình dương
(Canh Tân). Tổ hợp kết cấu nhóm tinh hệ này, vì thành "Cơ Nguyệt Đồng
Lương cách", cho nên bất lợi về kinh doanh làm ăn. Tuy Thiên cơ hóa Lộc,
nhưng "Thiên đồng Thiên lương" lại không phải tổ hợp sao chủ về giầu
có, còn Thiên lương hóa quyền bất quá chỉ trợ giúp Thiên cơ có thể thành
tựu khá lớn. Các sao ở cung Quan không ổn định, thường dễ bị lung lạc
dụ dỗ mà sinh thay đổi, điều này phải dựa vào sức mạnh của Thiên lương
hóa Quyền để tạo quân bình. Tìm sự ổn định như thế nào, là trọng điểm mà
người có nhóm tinh hệ này thủ mệnh phải lưu ý.
Thiên cơ hóa Lộc thủ mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, đối cung là Thiên
lương hóa Quyền, hội hợp với Cự môn ở cung Quan, cung Tài có Thiên đồng
thì đối xung với Thái âm lạc hãm hóa Kị ở cung Mão. Khuyết điểm của nhóm
tinh hệ này hoàn toàn nằm ở cung Tài Bạch, chủ về tay trắng kiếm tiền,
mà nguồn tiền tài lại không rộng, tài khí không vượng, lại còn tiêu pha
lãng phí, chi tiêu không đúng mục đích. Cho nên, tuy Thiên cơ hóa Lộc,
thì vẫn không chủ về tài lộc dồi dào, mà chỉ chủ về có nhiều cơ hội, có
thể dựa vào công tác kế hoạch mà thu nhập cũng khá cao, hoặc làm môi
giới để kiếm tiền, thì lực cạnh tranh của Thiên cơ có thể phát huy.
Tinh hệ "Thiên cơ Thái âm" ở hai cung Dần hoặc Thân, có Đà la cùng bay
đến, hoặc bị Kình Đà hội chiếu, Thiên cơ hóa Lộc Thái âm hóa Kị, hội hợp
với Thiên lương độc tọa hóa Quyền ở cung Quan cư Ngọ, cung Tài là Thiên
đồng độc tọa, có thể bị Kình Đà chiếu xạ, hoặc đồng độ với Kình Đà.
Nhóm tinh hệ này cũng là cách "Cơ Nguyệt Đồng Lương", cung Mệnh và cung
Tài đều có khuyết điểm, rất có thể thành người thích dùng thủ đoạn, kế
vặt để kiếm tiền, thiếu khí khái gánh vác trọng trách. Vì vậy về sự
nghiệp phần nhiều không ra gì, tiền bạc cũng bị nhiều trở ngại. Đạo "tìm
cát tránh hung" là tránh có cái nhìn thiển cận, chỉ thấy lợi nhỏ trước
mắt, và phải có lòng chân thành trong đối nhân xử thế để được "nhân
hòa", thì mới có thể tự nhiên gặp cơ duyên tiến thân.
Tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" ở hai cung Mão hoặc Dậu thủ mệnh có Thiên cơ
hóa Lộc, lại có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, cung mệnh Tài khí rất
vượng, cung Tài có Thiên đồng cư Hợi, cung Quan thì mượn "Thái dương
Thái âm" an cung có Thái âm hóa Kị. Kết cấu tinh hệ Cự Cơ này tài lộc
vượng, thích hợp dùng tài ăn nói để kiếm tiền, nhất là các nghề nghiệp
có tính phục vụ, như nhà hàng, khách sạn, du lịch, môi giới, .v.v... Nếu
có thêm Văn tinh, có thể đảm nhiệm công việc quảng bá.
Các sao của cung Quan không ổn định (ở Sửu Mùi vô chính diệu), dễ thay
đổi nghề nghiệp, hoặc hoán chuyển hoàn cảnh công tác, nhưng rất kị đầu
tư hay đầu cơ, nếu không ắt sẽ bị tổn thất. Đây là vì "Thái dương Thái
âm" hiếu động, trôi nổi, mà Thái âm hóa Kị thì thường ít suy tính trước
khi đầu tư.
Thiên đồng độc tọa cư Tài ở cung Hợi, có sao Lộc đồng độ, chủ về tay
trắng làm nên, nhưng Thiên lương ở đối cung hóa Quyền, có thể vì lý
tưởng quá cao mà bị tổn thất, hoặc chủ về chuốc đố kị, oán trách dẫn đến
tranh chấp, gặp trở lực.
Tinh hệ "Thiên cơ Thiên lương" ở hai cung Thìn hoặc Tuất, có Thiên cơ
hóa Lộc và Thiên Lương hóa Quyền, có Kình dương hội hợp, hoặc bị Kình
dương Đà la cùng chiếu. Cung Quan mượn "Thái dương Cự môn" an cung hội
hợp, lại có Sát tinh đồng cung. Cung Tài là "Thiên đồng Thái âm" mà Thái
âm hóa Kị, còn có Đà la hoặc Kình dương chiếu xạ. Nhóm tinh hệ này,
cung mệnh Cơ Lương hóa Lộc hóa Quyền, tuy lợi về công tác kế hoạch, quản
lý, giám sát, nhưng có Kình Đà hội hợp, thì lý tưởng hơi khó thực hiện.
Vì vậy cơ hội tuy nhiều, nhưng thường khó nắm chắc, cũng khó phát huy.
Các sao cung Tài có bản chất hiếu động, trôi nổi, mà còn bị Đà là hoặc
Kình dương quấy nhiễu gây khó khăn, nên chỉ lợi về tiền bạc trước mắt,
không được quá tham vọng. Nếu có kế hoạch kiếm tiền lâu dài thì khó
tránh gặp sóng gió, trắc trở, nếu kinh doanh làm ăn thì còn có nguy cơ
vỡ nợ. Cung Quan chủ về dễ được người ở phương xa, hay người ngoại quốc
tạm thời ủng hộ (Cự Nhật)
Thiên cơ độc tọa hóa Lộc ở hai cung Tị hoặc Hợi, đối cung là Thái âm hóa
Kị, cung Tài là "Thiên đồng Cự môn". Cung Quan mượn "Thái dương Thiên
lương" an cung hội hợp, có Lộc tồn đồng cung. Nhóm tinh hệ này, tài lộc
không vượng, rất nên chỉ dùng sở học để kiếm tiền, tiến hành nghiên cứu
học thuật, hoặc tiếp nối tổ nghiệp chớ đừng thay đổi nghề, nếu không sẽ
phí tâm lực, hoặc phí lời nói.
Thiên cơ bị Thái âm hóa Kị gây ảnh hưởng, có thể gặp cơ hội nhưng lại bỏ
qua mà không biết tại sao, cũng chủ về bị dụ dỗ đầu tư mà tổn thất,
hoặc nhận lầm cơ hội, vọng động thay đổi công việc nên bị trắc trở.
Tinh hệ "Thiên đồng Cự môn" thủ cung Tài, tuy có Thiên cơ hóa Lộc hội
hợp, lại có Lộc tồn cung hội hợp, cũng chỉ chủ về chức cao lương nhiều,
mà vẫn cần phải hao tổn tinh thần, hơn nữa mỗi lần thu nhập tăng thì thị
phi phiền nhiễu cũng kéo đến, khó mà yên thân.
3- Thiên Đồng - can Bính hóa Lộc
Thiên đồng chủ về tay trắng làm nên, khi Thiên đồng hóa Lộc không những
chủ về làm tăng tài lộc, mà còn thường có cơ duyên bất ngờ.
Nhưng nếu có các sao khoa văn đồng cung, thì tổ hợp sao thành quá phong
nhã, dễ mê đắm trong "thanh vận thơ phú" hoặc âm nhạc, ưa hưởng thụ tinh
thần mà ít có ý chí tiến thủ. Tình hình này không mấy thích hợp với xã
hội canh tranh khốc liệt của thời hiện đại.
Nếu có các sao đào hoa đồng độ, phần nhiều cảm thấy tinh thần trống rỗng, nên dễ chuốc lấy những rắc rối về tình cảm.
Thiên Đồng không sợ Sát tinh, nhiều lúc còn thành lực kích phát, cho nên
có cách "phản bối" và "Mã đầu đới kiếm". Dù không thành Cách, nhưng có
gặp một hai Sát tinh cũng không ngại, phần nhiều chủ về trung niên vất
vả, đến vãn niên mới có thể hưởng thụ.
Sau khi hóa Lộc, Thiên Đồng dễ chìm đắm trong dục lạc, nên ở vận hạn mà
hóa Lộc thì tốt hơn là hóa Lộc ở tinh bàn của nguyên cục. Bởi vì ở đại
hạn hoặc lưu niên, bản chất chìm đắm dục lạc sẽ không nặng (lúc này cũng
không cần có sát tinh kích phát).
Tinh hệ "Thiên đồng Thái âm" ở hai cung Tý hoặc Ngọ thủ mệnh, khi Thiên
đồng hóa Lộc, hội với "Thiên cơ Thiên lương" ở cung Quan (ở Thìn hoặc
Tuất) mà Thiên cơ hóa Quyền. Cung Tài mượn "Thái dương Cư môn" an cung
(ở Dần hoặc Thân). Ở xã hội hiên đại, nhóm tinh hệ có kết cấu dạng này,
nữ mệnh thì dễ phát, còn nam mệnh thì dễ được người khác giới xem trọng
ưu ái, nhưng lại không phải là tốt lành, do quá an nhàn, tình cảm phong
phú, rất có thể vì vậy mà ảnh hưởng đến sự nghiệp. Nếu Văn xương hóa
Khoa ở cung Mệnh hay cung Phúc, hoặc có Sát tinh kích phát, thì mới chủ
về thành tựu. Nhóm sao này muốn phát lên, thường phải khởi nghiệp bằng
các nghề mang tính phục vụ (như luật sư, kiểm toán viên, .v.v...), hoặc
viên chức cao cấp trong Cty lớn hay nhà nước, được như vậy thì sẽ tiến
triển mà không phải tốn quá nhiều sức, nhưng phải hao tổn lời nói. Người
có Văn xương hóa Khoa hội hợp cung Mệnh, sẽ nhờ danh tiếng mang lại cơ
hội.
Tinh hệ "Thiên đồng Cự môn" ở hai cung Sửu hoặc Mùi thủ mệnh, khi Thiên
Đồng hóa Lộc, hoặc gặp Lộc tồn đồng ở cung Quan là Thiên cơ hóa Quyền
(tại Tị hoặc Hợi). Cung Tài mượn "Thái dương Thiên lương" an cung (ở Mão
hoặc Dậu). Gặp sao Lộc nặng chưa chắc là hợp với "Thiên đồng Cự môn",
chủ về ưa thích thanh nhàn. Nếu lại gặp đào hoa, hoặc "sao lẻ" phụ tá
(nhất là Văn xương hoặc Văn khúc), thì chủ về gặp rắc rối trong tình
cảm, thường dễ bị đau khổ vì tình. Nếu cung Mệnh có sao Lộc nhẹ, thì mới
chủ về tài lộc dồi dào, nhưng cuộc đời vẫn có một thời kỳ gian khổ.
Cung Quan là Thiên cơ "Lộc trùng điệp" thích hợp với công tác kế hoạch
tài vụ, tài chính, kinh tế, vặch kế sách, nhưng cũng phải hao phí nhiều
tâm lực trong công việc. Khuyết điểm của nhóm tinh hệ này là cung Tử tức
(??? kiểm) không tốt, chủ về dễ bị người do mình đề bạt đoạt quyền.
Tinh hệ "Thiên đồng Thiên lương" ở hai cung Dần hoặc Thân thủ mệnh, khi
Thiên đồng hóa Lộc ắt sẽ bị Kình Đà chiếu xạ. Cung Quan là Thiên cơ hóa
Quyền (ở Tý hoặc Ngọ). Cung Tài là Thái âm độc tọa (ở Thìn hoặc Tuất),
có Kình Đà củng chiếu, hoặc Đà la đồng độ. Tinh hệ có kết cấu dạng này
ưa Kình dương mà ghét Đà la. Gặp Đà la hội chiếu sẽ dễ thành người thích
tán gẫu, lười biếng, uể oải, nếu gặp thêm các sao khoa văn và đào hoa,
thì chú trọng sự thú vị và tính cách điệu trong sinh hoạt tình cảm. Đối
với sự nghiệp và tiền tài sẽ vì vậy mà thờ ơ, tiêu cực. Nếu có Kình
dương kích phát, thì sự nghiệp có thể phát triển vững vàng, mà nguồn
tiền tài cũng nhờ đó mà thuận lợi toại ý. Có điều nếu cung Tài là Thái
âm đồng độ với Đà la thì kiếm được đồng tiền rất hao tổn sức lực, mà
nguồn tiền tài có lúc còn bị trở ngại, nhiều tranh chấp, bôn ba vất vả.
Nếu không có Đà la đồng độ, thì kiếm tiền chỉ hơi vất vả mà thôi. Bản
chất của "Thiên đồng Thiên lương" lợi về phục vụ, cũng chủ về danh
tiếng. Nếu có Văn xương hóa Khoa hội hợp, thì phải chú ý bồi dưỡng sự
vinh dự của bản thân.
Thiên đồng độc tọa thủ mệnh, hóa Lộc ở hai cung Mão hoặc Dậu, đối cung
là Thái âm. Cung Tài là Cự môn, có Lộc tồn cùng hội hợp với cung mệnh (ở
Hợi hoặc Tị). Cung Quan là Thiên cơ hóa Quyền (ở Mùi hoặc Sửu). Kết cấu
tinh hệ này có Quyền Lộc hội hợp, cho nên sự nghiệp sáng sủa. Nhưng
Thiên đồng thủ Mệnh vẫn không nên gặp Lộc nặng (năm Ất Tân), sẽ chủ về
dưỡng thành tâm lý ỷ lại, nữ mệnh thì thích trang điểm, chải chuốt quá
đáng, nam mệnh thì thích an nhàn, như vậy dù cơ hội đến nhiều, thường
cũng dễ mất. Cung Tài là Cự môn có sao Lộc, đối chiếu với Thái dương,
chủ về được người ngoại quốc hay người ở phương xa đề bạt nâng đỡ, thích
hợp với nghề kinh doanh bán lẻ, nghề cần đến tài ăn nói, hoặc phải hao
tổn tâm lực. Cung Tử tức tuy Liêm trinh hóa Kị, nhưng đồng cung với
Thiên tướng, nếu thành cách "Tài Ấm giáp ấn", còn chủ về được người dưới
quyền trợ lực. Nếu không thành Cách, thường thường dễ bị gây phiền
phức.
Thiên đồng thủ mệnh hóa Lộc ở hai cung Thìn hoặc Tuất, có Đà la đồng độ,
hoặc bị Kình Đà hội chiếu. Cung quan là "Thiên cơ Thái âm" mà Thiên cơ
hóa Quyền (ở Thân hoặc Dần), ắt sẽ bị Kình dương hoặc Đà la chiếu xạ.
Cung Tài là Thiên lương đồng độ với Kình dương (ở Tý hoặc Ngọ), hoặc bị
Kình dương Đà la chiếu xạ. Lúc Thiên Đồng ở cung Thìn đồng độ với Đà La,
thì dễ lãng phái thời gian một cách vô ích, tiền bạc cũng chật vật mới
kiếm được. Khi thiên Đồng ở cung Tuất, Đà La chiếu xạ gây "kích phát",
nhưng cung Tài là Thiên Lương đồng độ với Kình Dương; Thái Dương của đối
cung lại lạc hãm, lực hóa giải không đủ, nên khó kiếm được tiền mà còn
bị gây trở ngại; chủ về trung niên phát mạnh, lúc đầu rất khó khăn nhưng
về sau có thành tựu, nhưng cuộc đời dễ vì tiền bạc mà xảy ra kiện tụng,
hoặc bị ngầm tranh chấp, người dưới quyền cũng thiếu trợ lực. Tinh hệ
dạng này không nên quá thờ ơ đối với tiên bạc, mà cũng không nên xem
trọng thái quá, nếu không ắt sẽ gặp bất lợi.
Thiên Đồng thủ mệnh hóa Lộc ở hai cung Tị hoặc Hợi, đồng độ với Lộc tồn,
hoặc có Lộc tồn vây chiếu hay hội hợp, thành cách "Lộc trùng điệp",
thường chủ về nhờ thừa kế của cha mẹ mà có sản nghiệp. Cung Tài mượn
"Thái dương thái âm" nhập cung Sửu, gặp Lộc tồn, lợi hơn là mượn nhập
cung Mùi, khá thiếu tính ổn định. Cho nên Thiên đồng hóa Lộc ở cung Tị
thì tốt hơn ở cung Hợi. Nhưng Thiên đồng ở cung Tị thì "Lộc trùng điệp",
tuy có "phụ ấm", nhưng dễ biến thành người lần nữa, cẩu thả. Lúc sự
nghiệp có nguy cơ (thường do người dưới quyền xâm phạm). "Thiên cơ Cự
môn" của cung Quan mới sinh phấn chấn cải cách, Thiên cơ hóa Quyền cũng
mang ý nghĩa tổ nghiệp suy thoái, phải tự lập nghiệp, tất nhiên phải cần
hao tốn nhiều tâm lực, thì sự nghiệp mới được thành tựu. Nếu có Văn
xương hóa Khoa hội hợp sẽ làm tăng tính ổn định về sự nghiệp. Cung mệnh
gặp các sao đào hoa thì chủ về thất chí, nữ mệnh càng dễ cảm thấy trống
rỗng. Gặp "sao không" là danh sỹ nhàn đàm, nữ mệnh càng nhiều cảm giác
"trống vắng dưới trăng trước hoa".
4- Thái Âm - can Đinh hóa Lộc
Thái Âm là sao tiền tài, đương nhiên thích hóa thành sao Lộc, chủ về dư
giả. Nhưng so với Vũ Khúc hóa Lộc, có thể nói là Thái Âm thiếu hành động
kiếm tiền, thiếu "sức" cạnh tranh. Có thể giàu có hay không, vẫn cần
phải xem có lợi về sự tiến triển hay không; hoặc đại vận có "tài khí"
dồi dào hay không mà định. Nếu không, dù Thái Âm có hóa Lộc cũng bình
thường mà thôi.
Hơn nữa, lúc Thái Âm hóa Lộc, thì Cự Môn tất cũng đồng thời hóa Kị ở
cung Phúc, mà cung Phúc gây ảnh hưởng đến cung Tài (hai cung này luôn
luôn đối nhau). Thái Âm vốn có "khí chất" dễ dãi, bị ảnh hưởng của Cự
môn hóa Kị sẽ biến thành thích tranh chấp, tâm tình âu lo tính toán thái
quá, khiến cho khí chất ban đầu thay đổi rất lớn. Lại còn do không giỏi
tranh chấp theo kiểu mạnh bạo, nên đời người đương nhiên sẽ gặp nhiều
cảnh ngộ đáng tiếc.
Vì vậy Thái Âm hóa Lộc ở mệnh bàn không bằng hóa Lộc ở đại vận. Do ở đại
vận không chủ về bản chất, nên mới chủ về nguồn tiền tài thuận lợi toại
ý.
Thái Âm hóa Lộc ở cung hãm, chủ về một loại cảm giác sung sướng về tâm
lý, nếu không có các sao khác hội hợp, thì không chủ về tài lộc dồi dào.
Có điều, Thái Âm sau khi hóa Lộc, sẽ có tính chất cải thiện về những
bất lợi đối với lục thân.
Thái Âm hóa Lộc ở nguyên cục, lại Hóa thành sao Kị ở lưu niên hoặc đại
hạn, có thể ví là tiền tài thấy trước mắt thèm rõ rãi, nhưng không nên
bị dụ dỗ mà đầu tư, tránh hết sức vì tình cảm dao động mà dẫn đến phá
tài.
Thái Âm hóa Kị ở nguyên cục, lại Hóa thành sao Lộc ở lưu niên hoặc đại
hạn, chỉ cần không bị dụ dỗ đầu tư, thì trái lại, có thể kiếm tiền một
cách thuận lợi trong bối cảnh rối ren thị phi.
Thái Âm hóa Lộc ở cung mệnh của nguyên cục, cung Phúc là Cự môn hóa Kị,
bất kể nam mệnh hay nữ mệnh, đều cần phải chú trọng vấn đề tình cảm. Nếu
không thể lấy ý chí khắc phục tình trạng bị dụ dỗ về tình cảm, thì hậu
quả là đời người sẽ gặp rắc rối rất khó xử trong thực tế, nhưng lại có
một thiên tình sử để nhớ !!!
Tinh hệ "Thiên đồng Thái âm"thủ mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ, khi Thái Âm
hóa Lộc, Thiên Đồng hóa Quyền, còn có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu,
như vậy là "sao Lộc" nặng, thì vấn đề tình cảm càng thêm nghiêm trọng.
Nhưng tinh hệ này thường thường lại tượng trưng cho sự thông hôn với
người nước ngoài, nữ mệnh càng đúng. Cung Quan có "Thiên cơ Cự môn" mà
Cự môn hóa Kị, chủ về giao thiệp với người ngoại quốc (hay người ở
phương xa), vì vậy cũng thích hợp làm việc cho Cty nước ngoài, lao tâm
lao lực là không tránh được. Do cung Tài và cung Phúc thiên về vất vả,
còn cung Mệnh thiên về nhàn hạ, do đó vấn đề tình cảm càng dễ biến thành
vỏ bề ngoài của mệnh tạo. Nhóm tinh hệ này không toàn mỹ, ngoài vấn đề
tình cảm ra, thì còn có điều tiếng thị phi.
Tinh hệ "Thái dương Thái âm" thủ mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, có Thái
âm hóa Lộc. Cung Quan là Thiên lương đồng độ với Lộc tồn (ở Tị hoặc
Hợi). Cung Tài mượn "Thiên cơ Cự môn" nhập cung (ở Dậu hoặc Mão) có
Thiên cơ hóa Khoa còn Cự môn hóa Kị. Nhóm tinh hệ này tài lộc không
vượng, khó tích lũy, vì cung Mệnh cung Tài và cung Phúc đều không ổn
định; hơn nữa trước khi kiếm được tiền ắt lại có nhiều phiền phức, tài
khí càng nhiều thì phiền phức càng lớn, nên sau khi kiếm được tiền cũng
nhiều thị phi. Cho nên gặp chúng ở lưu niên hay đại hạn thì tốt hơn ở
mệnh bàn nguyên cục. Ở niên vận bất quá chỉ rắc rối khó xử về tình cảm
mà thôi.
Tinh hệ "Thiên cơ Thái âm" thủ mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thái âm
hóa Lộc còn Thiên cơ hóa Khoa, ở cung Dần (hoặc Thân) gặp Lộc tồn trùng
điệp. Cung quan là Thiên lương (ở Ngọ hoặc Tý). Cung Tài là Thiên đồng
hóa Quyền (ở Tuất hoặc Thìn). [Chú: phần này sách dịch nhầm, nên
saobienden có chỉnh sửa để phù hợp theo tinh bàn - kiểm ???]. Nhóm tinh
hệ này, Thái âm hóa Lộc thì tốt hơn Thiên cơ hóa Lộc, kết cấu khá đường
đường chính chính, cung Tài có Thiên đồng hóa Quyền càng chủ về nguồn
tiền tài ổn định, tay trắng làm nên, vãn niên ắt dễ giầu có. Cung Quan
là Thiên Lương gặp hóa Lộc, hoặc cách "Lộc trùng điệp" rất thích hợp với
giới công chức ngành bảo hiểm, công chứng, .v.v... nếu làm việc trong
chính giới thường hay bị hối lộ, vì vậy nên làm chức vụ nhỏ về giám sát
tài vụ, kế hoạch. Có điều cung Phúc có Cự môn hãm ở "thiên la địa võng"
nên nội tâm thường không được yên ổn.
Thái Âm độc tọa thủ mệnh, hóa Lộc ở hai cung Mão hoặc Dậu, hội Kình
Dương hay Đà La. Cung Quan là Thiên lương độc tọa (ở Sửu hoặc Mùi), đồng
độ với Đà la, hoặc bị Kình Đà hội chiếu. Cung Tài là Thái dương độc tọa
(ở Hợi hoặc Tị), đối cung là Cự môn hóa Kị đồng độ với Đà La, hoặc bị
Kình Đà hội chiếu. Tinh hệ này, do Thái âm hóa Lộc và Thiên đồng hóa
Quyền đối nhau, gọi là "Độc tọa tương hội", là kết cấu khá tốt, tuy bôn
ba vất vả, không cách nào có thời gian hưởng thụ trong đời người, nhưng
mệnh tạo lại cảm thấy vinh dự và thỏa mãn, lúc vãn niên thường cho rằng
mình đã sống không uổng phí kiếp người. Nhóm tinh hệ này, nam mệnh và nữ
mệnh đều có dáng vẻ mỹ quan, dễ được người khác giới để ý, nên cũng
thích hợp làm những nghề mà đối tượng khách hàng là khác giới. Cung Phúc
ở cung Hợi thì nội tâm bình lặng hơn ở cung Tị.
Thái Âm thủ mệnh hóa Lộc ở hai cung Thìn hoặc Tuất, ở cung Tuất lại
trùng điệp hội Lộc tồn, mà còn là vượng địa, nên tốt hơn nhiều so với
cung Thìn. Cung Quan là "Thiên đồng Thiên lương" mà Thiên đồng hóa Quyền
(ở Thân hoặc Dần). Cung Tài là Thiên cơ hóa Khoa (ở Tý hoặc Ngọ), hoặc
có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, nhưng cũng sẽ đồng thời vây chiếu Cự
môn hóa Kị. Ở "tam phương tứ chính" có Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Lộc
tồn phối trí cân xứng, do đó đây là kết cấu đẹp, chủ về kiếm được tiền
lâu dài, dù có bị tranh chấp thì cũng dễ ứng phó (nhất là Thái Âm ở cung
Tuất, cung Quan mạnh hơn cung Tài, thường có thể kế thừa sự nghiệp của
cha mà kinh doanh làm ăn, còn có thể phát dương quang đại), vẫn nên làm
nghề bán lẻ, nghề quảng bá hay phục vụ; cũng có thể làm công chức hay
những nghề có sắc thái quảng bá. Cung Phúc là Cự môn hóa Kị ở cung Ngọ
ắt sẽ có Kình Đà giáp cung, không những không được yên ổn, dễ chuốc điều
tiếng thị phi chèn ép, mà còn có áp lực "quan phi", hôn nhân cũng
thường bất lợi. Cung Phúc ở Tý có đỡ hơn nhưng mức độ chỉ giảm nhẹ mà
thôi.
Thái Âm thủ mệnh hóa Lộc ở hai Tị hoặc Hợi, đối nhau với Thiên cơ hóa
Khoa, mệnh ở cung Hợi tốt hơn, ở cung Tị thì Thái âm lạc hãm, chủ về bôn
ba vất vả, không ổn định để theo giữ một nghề. Cung Quan là "Thái dương
Thiên lương" được Quyền Lộc chiếu (ở Dậu hoặc Mão), có Văn xương đồng
độ thích hợp với lĩnh vực nghiên cứu học thuật, nếu không có thể làm
viên chức NN hay Cty lớn cũng phù hợp, cũng có thể theo ngành y dược,
công tác xã hội, , gặp Văn khúc thì thích hợp làm môi giới bảo hiểm.
Cung Tài là "Thiên đồng Cự môn" một hóa Quyền một hóa Kị, kiếm tiền ắt
phải hao tổn tâm lực, rất vất vả về nói năng thuyết phục. Vấn đề tình
cảm cũng là khuyết điểm của tinh hệ này.
5- Tham Lang - can Mậu hóa Lộc
Bản chất của Tham Lanh vốn đã chủ về ham muốn vật chất, nên lúc Hóa Lộc ý
nghĩa của ham muốn vật chất càng tăng. Bản chất của Tham Lang cũng giỏi
giao tế thù tạc, lúc hóa Lộc có thể nhờ thù tạc mà phát triển sự
nghiệp, từ đó kiếm tiền.
Tham lang hóa Lộc còn có bản chất đầu cơ. Có Hỏa linh, Linh tinh đồng
độ, thì đầu cơ có thể thu lợi, nhưng cũng cần chú ý xem vận hạn có thích
hợp không. Nếu có Kình dương, Đà la đồng độ hoặc hội chiếu, thì không
nên đầu cơ.
Tham lang hóa Lộc mà có các sao đào hoa hội hợp, thì ham muôn vật chất
và sắc dục đều nặng. Cần lưu ý vận hạn, đề phòng vì sắc mà phá tài.
Nếu tham lang hóa Lộc mà có Kình Đà Không Kiếm đồng độ, sẽ chủ về vì
giao tế thù tạc mà phá tài, hao tốn tiền bạc không chỉ vì thù tạc trong
công việc, mà còn vì giao du với bạn xấu.
Tham lang hóa Lộc thành cách "Hỏa Tham", "Linh Tham", ắt sẽ có khoảng
tiền lớn bất ngờ, nhưng sau khi phát tài cũng chủ về dễ thất bại. Vì vậy
không nên cứ mãi chuyên chú ở nguồn tiền bất ngờ.
Tham lang độc tọa thủ mệnh, hóa Lộc ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối nhau với
Tử vi. Cung Tài là Phá quân. Cung Quan là Thất sát. Trong hai cung Tý
Ngọ, ở cung Tý thì có ý vị "phiếm thủy đào hoa", vì vậy ở cung Ngọ tốt
hơn và là cách "Mộc Hỏa thông minh". Cho nên tuy cùng là Hóa Lộc, mà ở
cung Ngọ thì kiếm tiền khá nhiều, cũng dễ tích lũy, còn ở cung Tý thì
thường dễ tiêu xài, hao tổn vì người khác giới. Phá quân thủ cung Tài,
ưa đầu cơ mạo hiểm, giầu năng lực sáng lập sự nghiệp, hoặc ưa làm những
công việc có tính khai sáng hay có tính độc lập. Nhưng khả năng giữ tiền
không được tốt, đây là khuyết điểm của nó. Tinh hệ này, Thiên cơ hóa Kị
ở cung Nô, hội chiếu cung Huynh, vì vậy không nên hợp tác với người
khác để gây dựng sự nghiệp, người dưới quyền cũng thiếu trợ lực.
Tinh hệ "Vũ khúc Tham lang" đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Tham
lang thủ mệnh hóa Lộc, ở cung Sửu còn hội Lộc tồn tốt hơn cung Mùi. Cung
Quan là "Tử vi Thất sát" hội hợp với Lộc tồn, khí thế bàng bạc. Cung
Tài là "Liêm trinh Phá quân" ở cung Dậu, thì "Lộc trùng điệp", nên an
Mệnh ở cung Sửu thì "tài khí" ắt sẽ lớn hơn ở cung Mùi. Nhóm tinh hệ này
chủ về đời người biến đổi đa đoan, tài vận cũng biến đổi vô thường,
nhưng đủ sức kiếm tiền, còn nhờ giao tế thù tạc mà có cơ hội tốt, nên ắt
sẽ dư giả. Mệnh ở cung Sửu không những cục diện sự nghiệp lớn mà tài
lộc cũng dồi dào. Tinh hệ này có khuyết điểm là thường dễ bất cẩn, sơ
sót trong việc giáo dục con cái. Đồng thời trong nội bộ môi trường làm
việc (Cty, công sở, mối quan hệ nhóm làm ăn) cũng thiếu mạch lạc, lớp
lang, thường xảy ra tệ "có người thì làm việc đoàng hoàng, không có
người thì nghỉ".
Tham lang thủ mệnh hóa Lộc ở hai cung Dần hoặc Thân, ở hai cung độ này
Tham lang hóa Lộc đều có khuyết điểm, dễ "bạo phát bạo tàn". Cho nên ở
đại vận mà gặp nó thì có lợi hơn là gặp ở cung Mệnh nguyên cục. Ở cung
Dần thì khá tốt, biên độ lên xuống nhỏ. Ở cung Thân thì tay trắng sáng
lập sự nghiệp, nhưng lại bị cách "Mộc bị Kim khắc chế", thường phải trải
qua gian khổ mới có được tiền của, rồi lại phá tán, thất bại tiếp. Tham
làn hóa Lộc chỉ chủ về sau khi phá tán, thất bại, thì vẫn còn cục diện
để đứng lên mà thôi. Cung Tài là Phá quân cũng chủ về lên xuống bất
thường, đồng độ với Đà La sẽ chủ về tài vận đến chậm. Cung Quan là Thất
sát, vì vậy không nên đầu cơ, thích hợp với những ngành nghề giải trí,
vui chơi, hưởng thụ, trang điểm, nghệ thuật, tiêu dùng.
Tinh hệ "Tử vi Tham lang" thủ mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu mà Tham lang
hóa Lộc. Cung Tài là "Vũ khúc Phá quân ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây
chiếu. Ở hai cung độ này đã đủ tượng trưng cho lực "xung kích", sức
cạnh tranh rất mạnh, do đó dễ có cơ hội kiếm tiền gây dựng sự nghiệp,
người này đều không chịu bỏ qua. Cung Quan là "Liêm trinh Thất sát",
cũng mang ý vị quyền lực và thủ đoạn phối hợp hỗ tương với đặc tính của
"Tử vi Tham lang". "Vũ khúc Phá quân"thủ cung Tài, chỉ chủ về đặc trưng
dùng đồng tiền có mục đích, có chủ đích xác đáng. Nhưng đối với người
khác giới thì họ cực kỳ hào sảng. Nếu là nữ mệnh thì không có khuyết
điểm này, nên nữ mệnh ưu hơn nam mệnh. Tinh hệ này nên đề phòng người
hợp tác hay người dưới quyền xâm phạm.
Tham lang thủ mệnh hóa Lộc độc tọa ở hai cung Thìn hoặc Tuất, ở cung
Thìn ắt sẽ đồng độ với Đà la, ở cung Tuất thì bị Kình Đà hội chiếu. So
sánh hai trường hợp, ở cung Thìn thì lúc trẻ gặp nhiều hiểm trở, đường
đời gập ghềnh, ở cung Tuất thì có tinh thần tiến thủ mạnh. Cung Tài là
Phá quân, cung Quan là Thất sát, chủ về không chuyên giữ một nghề, phần
nhiều đều làm nhiều công việc hay kiêm nhiều chức vụ, hoặc thường đảm
nhận thêm nhiệm vụ quan trọng. Ngoài những điều vừa thuật ở trên, thì
tinh hệ này là kết cấu Tham lang tọa mệnh khá ổn định. Nhưng đối với nữ
mệnh, dễ có bất mãn trong hôn nhân, có thể chỉ vì dựa vào kinh tế của
chồng mà phải duy trì cuộc hôn nhân.
Tinh hệ "Liêm trinh Tham lang" thủ mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, mà Tham
lang hóa Lộc, còn có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu. Cung Tài là "Tử vi
Phá quân" không chủ về tích lũy tiền bạc, cho nên khi hội hợp hai cung
độ này, sẽ có bản chất cực kỳ chú trọng vẻ bề ngoài. Cung Quan là "Vũ
khúc Thất sát", tam phương tứ chính có đào hoa trung trùng, rất thích
hợp với ngành có tính giải trí, vui chơi, hưởng thụ. "Vũ khúc Thất sát" ở
cung Dậu có thể theo nghề ảm thực. Có điều nếu gặp các sao khoa văn hội
hợp, lại thường là nhân tài chuyên nghiệp, như bác sỹ khoa phụ sản,
.v.v...
6- Vũ khúc - can Kỷ hóa Lộc
Vũ khúc là sao tiền tài, còn chủ về hành động, nên ưa hóa Lộc. Vì chủ về
hành động, tất nhiên dễ tạo dựng sự nghiệp, hơn nữa sự nghiệp càng lớn
thì tài lộc càng dồi dào. Nếu muốn tính toán tài phú của người này,
không thể chỉ nhìn xem anh ta có tích lũy hay không, mà tài sản của anh
ta thường thường cũng là vốn liếng của cty.
Vũ khúc hóa Lộc mà có tứ Sát đồng độ, chủ về lấy tay nghề, công nghệ để
kiếm tiền. Làm ăn tốt, nên nguồn tiền tài không thiếu, có điều nếu nghỉ
hưu thì không có thu nhập, do đó cần phải chú ý tích lũy. May mà Vũ Khúc
có bản chất giỏi quản lý tài chính, trừ khi cung Tài quá thậm tệ, nếu
không phần nhiều đều có tích lũy.
Vũ Khúc hóa Lộc rất kị có Văn Khúc hóa Kị hội hợp (can Kỷ), sẽ chủ về
nghề nghiệp chính thức thì có thể kiếm tiền, nhưng đầu tư ắt sẽ bị tổn
thất, do đó việc tích lũy sẽ giảm đi nhiều.
Nữ mệnh không ưa Vũ Khúc hóa thành sao Lộc, chủ về làm tăng mạnh thêm cơ hội độc thân.
Tinh hệ "Vũ khúc Thiên phủ" thủ mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ mà Vũ khúc
hóa Lộc, là kết cấu tốt lành. Hơn nữa còn có Lộc tồn đồng độ hoặc vây
chiếu, "Lộc trùng điệp" nên nguồn tiền tài càng vượng. Cung Tài là Liêm
trinh độc tọa hội hóa Lộc, thì giỏi quản lý tài chính, cũng là sở trường
lợi dụng của cải để kiếm tiền (lấy tiền để kiếp tiền, rất an nhàn,
thường thường còn được nhiều). Ở cung Dần gặp "Lộc trùng điệp" là khá
tốt. Cung Quan là "Tử vi Thiên tướng", chủ về ưa hợp tác với người khác,
mà bản thân mệnh tạo ở địa vị lãnh đạo, địa vị chủ đạo. Ở cung Tuất gặp
"Lộc trùng điệp" cũng khá tốt (Tóm lại "Vũ khúc Thiên phủ" ở cung Ngọ
là khá tốt, nhưng ở đây chỉ nói về tiền bạc của cải). Nhóm tinh hệ này
cần phải quan sát kỹ xem Văn Khúc hóa Kị ở cung độ nào, thường thì
khuyết điểm cơ bản của mệnh cục là ở đó.
Tinh hệ "Vũ khúc Tham lang" thủ mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Vũ khúc
hóa Lộc còn Tham lang hóa Quyền, nhưng ắt sẽ có Kình dương đồng độ,
hoặc bị Kình Đà chiếu xạ. Cung Quan là "Tử vi Thất sát" đồng độ với Đà
la, hoặc có Kình Đà giao hội. Cung Tài là "Liêm trinh Phá quân" bị Đà La
hội chiếu, hoặc Kình Dương hội chiếu. Gặp Đà La thì khá bất lợi, chủ về
tuổi trẻ hưởng thụ sa đà, nếu không sẽ chủ về vất vả mà không thu hoạch
được gì. Nhóm tinh hệ này, ham muốn tiền bạc và sự nghiệp đều nặng,
chính vì duyên cớ này mà thường có hiện tượng lộng quyền, lạm quyền,
thích sống sa hoa, ưa lôi kéo trong quan hệ giao tế, nhưng trong tình
bạn lại không được lâu dài và tình bạn không bền vững. Cho nên rất ngại
Văn Khúc hóa Kị ở cung Nô (cung Giao hữu) hay cung Huynh, sẽ chủ về bị
bạn bè hoặc người dưới quyền ngầm gây tổn hại. Đánh giá về "nhân tình"
là then chốt để luận đoán nhóm tinh hệ này.
Tinh hệ "Thiên tướng Vũ khúc" thủ mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Vũ
khúc hóa Lộc, hơn nữa ở cung Dần còn hội Lộc tồn, tài khí không phải
yếu. Cung Quan là Tử vi ở cung Tý hoặc Ngọ, có khí thế độc lập, được Lộc
tồn đồng độ hoặc hội chiếu, sự nghiệp có thực chất chứ không khoa
trương phù phiếm. Cung Tài là "Liêm trinh Thiên phủ, chủ về giỏi quản lý
tài chính, lại sở trường vận dụng tiền bạc để có tiếng tăm. Xem toàn bộ
tinh hệ là một kết cấu tốt, chủ về lúc đầu thì giúp người khác gây dựng
sự nghiệp, nhưng không lâu liền tự lập mà trở nên giầu có, danh lợi có
đủ. Nhưng nếu Văn Khúc hóa Kị ở cung Mệnh hoặc cung Phúc, phần nhiều sai
lầm là do gánh lụy cho người khác, tuyệt đối không nên đầu cơ, cũng
không nên làm người bảo lãnh tiền bạc cho ai. Văn Khúc hóa Kị ở cung
Huynh chủ về bị bạn bè uy hiếp.
Tinh hệ "Vũ khúc Thất sát" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Vũ khúc
hóa Lộc. Cung Quan là "Tử vi Phá quân" đồng độ với Kình dương, hoặc có
Kình Đà hội chiếu. Cung Tài là "Liêm trinh Tham lang" mà Tham lang hóa
Quyền, có Đà La đồng độ, hoặc Kình Đà hội chiếu. Toàn bộ tinh hệ có kết
cấu mạnh mẽ, vì Vũ Sát đã có sắc thái quyền lực, lại thêm Tham lang hóa
Quyền. Nếu cung Mệnh không có Hỏa Linh, thì rất thích hợp theo võ
nghiệp. Gặp Xương Khúc thì có thể là Bác sỹ ngoại khoa hoặc nha khoa,
cũng thích hợp với nghề ẩm thực. Nhóm này, tinh hệ cũng chủ về khéo vận
dụng cơ hội, có năng lực quản lý tốt, cũng khéo vận dụng tiền bạc để lôi
kéo sự ủng hộ, nên được nhiều trợ lực.
Vũ khúc độc tọa thủ Mệnh hóa Lộc ở hai cung Thìn hoặc Tuất, có Tham lang
hóa Quyền ở đối cung. Cung Tài là "Liêm trinh Thiên tướng" có Lộc tồn
đồng độ hoặc vây chiếu. Cung Quan là "Tử vi Thiên Phủ". Nhóm này, tinh
hệ về tài lộc đều vượng, nhưng Vũ khúc hãm ở "thiên la địa võng" e rằng
sức khai sáng không đủ, dễ ham thích an nhàn. Cho nên rất ngại Văn Khúc
hóa Kị ở cung Phúc đức. Cung Tài là Liêm Tướng, nếu đồng độ với Lộc tồn
thì keo kiệt ích kỷ. Nếu Lộc tồn vây chiếu thì chủ về rộng rãi hào sảng.
Nếu gặp tinh hệ này ở lưu niên hoặc đại hạn, mà ở nguyên cục Liêm trinh
hóa Kị, hoặc Vũ khúc hóa Kị, thì lại không cát tường, chủ về vì tiền
bạc mà thất bại lớn.
Tinh hệ "Vũ khúc Phá quân" thủ mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, mà Vũ khúc
hóa Lộc, hội với "Tử vi Tham lang" ở cung Quan mà Tham lang hóa Quyền và
hội với "Liêm trinh Thất sát" ở cung Tài. Khi luận đoán cần lưu ý tình
hình 3 tinh hệ này hội hợp với Kình dương, Đà la. Tinh hệ này có sức
khai sáng rất mạnh, chỉ khi đồng độ với Đà la ở cung Tị mới chủ về sức
khỏe không tốt, gây ảnh hưởng đến sức khai sáng của nó. Tử Tham ở cung
Quan có Tham lang hóa Quyền, chủ về cực kỳ tích cực, có thể phối hợp tốt
với cung Mệnh. Nhưng cung Tài lại khá yếu, thích tích lũy tiền bạc mà
lại thiếu lực, dẫn đến không thể phối hợp với cung Mệnh và cung Quan.
Đây là khuyết điểm lớn nhất của tinh hệ này. Nguyên nhân không thể tích
lũy tiền của, là vì thường có nguyên nhân liên quan đến sức khỏe, cũng
có liên quan đến hôn nhân.
7- Thái Dương - can Canh hóa Lộc
Thái Dương chủ về phát tài, khi hóa Lộc cũng chẳng làm tăng danh vọng,
mà ngược lại, nhờ vào danh vọng thì mới có được tiền bạc, ví dụ như nhờ
nghe danh tiếng mà được mời làm việc.
Có lúc cũng chủ về được tài lộc không nhiều, chủ yếu thuộc về vinh dự. Ví dụ như được bằng khen, .v.v...
Do bản thân Thái Dương có tính chất "quý" mà không "phú", nên được tiếng
tăm nhiều hơn tiền tài. Lúc Thái dương lạc hãm mà hóa Lộc, có lúc còn
chủ về tán tài, ví dụ như được vinh dự nhận bằng khen, vì vậy mà tổ chức
tiệc mừng, mời bạn bè thân hữu đến chung vui, nên phải chi tiêu tốn kém
tương đối lớn. Xét ở góc độ tính toán tiền bạc, có thể nói "thu không
bằng chi".
Khi Thái dương miếu vượng mà hóa Lộc, cũng có thể quản lý được chút tài sản, nhờ vậy mà làm tăng địa vị của mệnh tạo.
Các nguyên tắc thuật ở trên, tóm lại là "Thái dương chủ về Quý mà không chủ về Phú".
Thái dương độc tọa thủ mệnh, hóa Lộc ở hai cung Tý hoặc Ngọ. Cung Quan
là Cự môn. Cung Tài mượn "Thiên cơ Thái âm" để hội hợp với cung Mệnh, có
Lộc tồn đồng độ. Đây là "phú cục", nhưng "phú" của nó là do sao Lộc
trùng điệp ở cung Tài, chứ không phải do Thái dương hóa thành sao Lộc ở
cung Mệnh, nhưng vẫn nhờ vào danh dự và địa vị của bản thân mệnh tạo mà
có. "Thiên cơ Thái âm" không đủ sức giữ tiền bạc, hội sao Lộc lại chủ về
có kiếm được tiền một cách thuận lợi, vì vậy dễ có cảm giác thỏa mãn,
nhưng cảm giác thỏa mãn của mệnh tạo cũng là vì "quý" (có danh tiếng)
chứ không phải vì "phú" (giầu có). Thái dương ở cung Ngọ tốt hơn ở cung
Tý, vì ở cung Ngọ thì Thái dương và Thái âm đều miếu vượng (??? kiểm),
còn ở cung Tý thì Thái dương và Thái âm đều lạc hãm (??? kiểm). Cho nên
Thái dương ở cung Tý đắc tài lộc hơi ít mà quá trình kiếm tiền cũng khá
hao tổn tinh thần. Nhưng Thái dương hóa Lộc ở cung Ngọ, ánh sáng chói
lọi quá thịnh, dễ bị người khác giới để ý làm tăng thêm rắc rối khó xử
về tình cảm, hơn nữa còn vì chi tiêu, gánh vác quá đáng mà dễ biến thành
trống rỗng.
Tinh hệ "Thái dương Thái âm" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Thái
dương hóa Lộc. Cung Quan là Thiên lương độc tọa. Cung Tài mượn "Thiên cơ
Cự môn" nhập cung, ắt sẽ có Kình dương đồng độ. Thái dương hóa Lộc
không bằng Thái âm hóa Lộc, chỉ chủ về "danh" lớn hơn "lợi". Cung Tài là
Cự Cơ có thêm Kình dương, kiếm tiền ắt sẽ hao tổn tâm lực, hoặc chủ về
phải nói năng vất vả. Thái dương hóa Lộc ở cung Mùi tốt hơn ở cung Sửu.
Thái dương hóa Lộc ở cung Mùi có thể giải được tính "cô độc và hình
khắc" của Thiên lương, khiến cho tình hình cạnh tranh trong sự nghiệp
khá thuận lợi, làm tăng thu nhập.
Tinh hệ "Thái dương Cự môn" thủ mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thái
dương hóa Lộc, có Lộc tồn đồng độ hoặc đối nhau. Cung Quan là "Thiên
đồng Thái âm" mà Thiên đồng hóa Kị. Cung Tài mượn "Thiên cơ Thiên lương"
nhập cung. Do Thái dương hóa Lộc còn hội Lộc tồn, cho nên chủ về "danh"
trước rồi mới có "lợi" sau, danh khí càng lớn thì thu nhập cành nhiều.
Nhưng, toàn bộ các tinh hệ đều là kết cấu lao tâm, phải vất vả và phải
nói năng rất nhiều, mà kinh doanh làm ăn vẫn gặp nhiều tranh chấp. Cung
Quan là Đồng Âm mà Thiên đồng hóa Kị, chủ về vui vẻ mà lại không vui vẻ,
có phúc mà không hưởng được, điều này cũng tương ứng với các sao ở cung
Mệnh. Thái dương hóa Lộc ở cung Dần ưu hơn ở cung Thân, vì Thái dương ở
nơi vượng.
Tinh hệ "Thái dương Thiên lương" thủ mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà
Thái dương hóa Lộc ắt sẽ gặp Kình dương, hoặc Kình dương Đà la hội
chiếu. Cung Tài là Thái âm độc tọa. Cung Quan mượn "Thiên đồng Cự môn"
nhập cung. Thái âm so với "Thái dương Thiên lương" cùng là hóa Lộc mà
khác nhau rất xa, chủ yếu là do Thái âm ở cung Tài, Thái âm lạc hãm thì
tài khó mà tụ, cho nên "Thái dương Thiên lương" ở cung Dậu không bằng ở
cung Mão. Nhưng toàn bộ các tinh hệ đều có sắc thái phục vụ, mà còn có
danh lớn, vì vậy rất nên dựa vào "phúc ấm" để nâng cao tên tuổi. Bao gồm
danh hiệu học vị, được nhiều người biết tiếng ở nơi làm việc, cho đến
việc được nhiều người có tiếng tăm nâng đỡ, nếu không sẽ dễ chuốc đố kị.
Nếu thành cách "Dương Lương Xương Khúc" thì rất thích hợp nghiên cứu
học thuật, cuộc đời sẽ có nguồn tiền tài vào không ngừng, như nước nhỏ
mà chảy dài.
Thái dương độc tọa thủ mệnh, hóa Lộc ở hai cung Thìn hoặc Tuất. Cung Tài
là Cự môn, có thể hội Lộc tồn thành cách "Lộc trùng điệp". Cung Quan
mượn "Thiên đồng Thiên lương" nhập cung mà Thiên đồng hóa Kị, có Lộc tồn
đồng độ. Toàn bộ các tinh hệ của kết cấu này rất vượng tài lộc, nhưng
Thái Dương ở "thiên la địa võng", tuy đời người tiến triển ổn định,
nhưng vẫn khó tránh lao tâm, lao lực. Cự môn ở cung Tài có "sao Lộc
trùng điệp", tuy chủ về "phú" và được người ngoại quốc (hay người ở
phương xa) giúp đỡ hay ủng hộ, nhưng vẫn khó tránh phải lao tâm và rất
vất vả về nói năng. Điều này còn hợp với tính chất của Thiên đồng hóa Kị
ở cung Quan. So sánh hai cung vị, ở cung Thìn ưu hơn ở cung Tuất, cung
Thìn thì Thái dương nhập miếu, danh lợi đều ưu.
Thái dương độc tọa thủ Mệnh hóa Lộc ở hai cung Tị hoặc Hợi. Cung Tài là
Thiên lương. Cung Quan là Thái âm. Thái dương hóa Lộc ở cung Tị chủ về
hưởng thụ, Hóa Lộc ở cung Hợi thì lạc hãm, cuộc sống đơn sơ. Nói về danh
khí, ở cung Tị cũng hơn ở cung Hợi. Có điều Thái dương hóa Lộc thì bất
kể thế nào, cũng phải nhờ vào danh tiếng mà kiếm tiền. Thiên lương ở
cung Tài thì rất nên dựa vào phát minh sáng tạo mà thu lợi, hoặc nhờ
thương hiệu, tiếng tăm cũng có thể trở nên giầu có. Nếu không, nên làm
những công việc như kiểm toán, giám sát, bảo hiểm.
8- Cự Môn - can Tân hóa Lộc
Cự Môn chủ về điều tiếng thị phi, khi hóa thành sao Lộc, thì nhuyễn hóa
thành nói năng để phục vụ. Cho nên ý nghĩa cơ bản là lợi về dạy học,
luật sư, làm môi giới hoặc làm quảng bá. Ở xã hội hiện đại cũng có lợi
về nghệ thuật biểu diễn, có thể khiến tài năng biểu diễn (nhất là ca
xướng) được hoan nghênh.
Nhưng Cự Môn là "ám tinh", không hóa Lộc, cũng đã ưa thích che hào quang
của người khác. Sau khi hóa Lộc còn có khuynh hướng biểu hiện bản thân,
do đó sinh ra thị phi, có thể ảnh hưởng đến sự nghiệp. Người xưa cho
rằng "Cự môn hóa Lộc" phú quý không được lâu", là vì luận định tính lý
này.
Cự môn hóa Lộc, không ưa có Sát tinh đồng độ, có Sát tinh thì thành phá
cách, ghét nhất là Hỏa tinh, Linh tinh, chủ về bình địa nổi cơn sóng
gió, thường thường là do bản thân gây ra.
Cự môn sau khi hóa Lộc sẽ có sắc thái đào hoa, nếu lại hội các sao đào
hoa thì tình cảm càng dễ nổi sóng gió. Cự môn hóa Lộc ở bản cung cũng
chủ về thích ăn uống, còn chủ về phần nhiều đau khổ vì tình.
Cự môn độc tọa thủ Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Tý hoặc Ngọ. Cung Quan là
Thái dương hóa Quyền. Cung Tài mượn "Thiên đồng Thiên lương" nhập cung,
ắt sẽ kèm Đà la. Nếu có Văn khúc hóa Khoa đồng độ hay hội hợp, là cách
"Thạch trung ẩn ngọc", tài lộc sẽ theo tiếng tăm địa vị mà đến, nhưng
lúc trẻ ắt phải chịu qua gian khổ trước. Lúc này người Cự môn hóa Lộc
thủ mệnh nên giấu bớt tài năng, không quá lộ sự sắc xảo, thì mới hợp với
tính chất của "Thạch trung ẩn ngọc cách". Nếu không, địa vị càng cao
thì thế sẽ càng nguy, càng dễ bị người ta bài xích, chèn ép. Cung Tài là
Đồng Lương mượn để nhập cung, cũng chủ về tiền của theo danh dự và địa
vị mà đến. Nếu cố ý kiếm tiền thì lại khó mà được.
Tinh hệ "Thiên đồng Cự môn" thủ mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Cự môn
hóa Lộc ở cung Sửu lại có Lộc tồn trùng điệp. Cung Quan là Thiên cơ.
Cung Tài mượn "Thái dương Thiên lương" nhập cung, mà Thái dương hóa
Quyền, ắt sẽ kèm Lộc tồn. Nếu Văn Xương hóa Khoa hội hợp với cung Mệnh
hoặc cung Tài, thì cung Tài sẽ hình thành Cách: "Dương Lương Xương Lộc"
cát tường. Cách này ở bản tinh hệ, có lợi về làm việc trong chính giới.
Nếu không thành Cách, do Thái dương và Cự môn được cát hóa, nên cũng có
thể được người ngoại quốc (hay người ở phương xa) xem trọng. Vì vậy rất
thích hợp làm đại lý thương phẩm nước ngoài, hoặc làm việc cho công ty
nước ngoài. Nếu không chỉ nên làm những nghề mang tính phục vụ, hoặc
chuyên nghiệp. Người "thiên đồng Cự môn" thủ Mệnh ở cung Mùi thì khó
tránh hiếu động, trôi nổi, thường thay đổi hoàn cảnh công tác.
Tinh hệ "Thái dương Cự môn" thủ mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, có Thái
dương hóa Quyền, còn Cự môn hóa Lộc ắt sẽ đồng độ với Đà La, hoặc hội
hợp với Kình Đà. Cung Tài mượn "Thiên cơ Thiên lương". Cung Quan mượn
"Thiên đồng Thái âm". Trong các cung chỉ có cung Mệnh là mạnh, các cung
khác đều yếu, tuy không giảm trợ lực, nhưng cũng bất lợi về hôn nhân, ở
cung Thân càng nặng. Tiền bạc do danh dự và địa vị mà đến, vì vậy muốn
tích lũy cũng không dễ. Bạn đọc có thể tham khảo thêm đoạn "Cự môn hóa
Lộc ở hai cung Tý hoặc Ngọ" đã thuật ở trước. Riêng về nữ mệnh, gặp
"Thái dương Cự môn" hóa Quyền và hóa Lộc ở cung Mệnh, thường chủ về kết
hôn với người ngoại quốc (hay người ở phương xa), và đối với nữ mệnh đều
được người ngoại quốc, hay người ở phương xa xem trọng.
Tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Cự môn
hóa Lộc ắt sẽ hội hợp với Lộc tồn thành cách "Lộc trùng điệp". Có điều
cung Tài là Thiên đồng lại quá thích an nhàn hưởng lạc. Cung Quan mượn
"Thái dương Thái âm" lại quá hiếu động, trôi nổi, nên cũng ảnh hưởng đến
tài lộc của "Thiên cơ Cự môn", khó tránh phải lao lực, hoặc vất vả và
nói năng, cũng thích hợp với những nghề cần miệng lưỡi, tài ăn nói. Nếu
cung Tài ở cung Tị thì được "Lộc trùng điệp cách" tài khí khá vượng, chủ
về tay trắng làm nên trở thành giầu có. Cách "Lộc trùng điệp" ở cung
Tài ưu hơn "Lộc trùng điệp" ở cung Mệnh. Đây là đặc điểm của cách cục
này.
Cự môn độc tọa thủ mệnh, hóa Lộc ở hai cung Thìn hoặc Tuất, hội Kình Đà,
hoặc có Kình dương cùng bay đến, Thiên đồng ở đối cung. Cung Tài là
Thái dương hóa Quyền. Cung Quan mượn "Thiên cơ Thái âm". Cự môn ở hai
cung Thìn hoặc Tuất là hãm địa, vì vậy tuy hóa Lộc cũng không chủ về tài
lộc dồi dào. Nếu có ý kiếm tiền thì sẽ gặp nhiều gian khổ. Nếu có thể
nâng cao học lực, nhờ địa vị xã hội hoặc tiếng tăm mà kiếm tiền thì lại
thích hợp. Cung Tài là Thái dương hóa Quyền, cũng chủ về "danh" lớn hơn
"lợi", hoặc lợi lộc theo tiếng tăm, danh dự mà đến, thích hợp làm những
nghề chuyên môn như giáo chức, luật sư, .v.v... cũng thích hợp với công
việc bán hàng, chào hàng, hoặc phục vụ.
Cự môn độc tọa thủ Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Tị hoặc Hợi, Thái dương ở
đối cung hóa Quyền. Cung Tài là Thiên cơ gặp Sát tinh. Cung Quan là
Thiên đồng được Lộc tồn. Cự môn khó tương hội với Lộc và Quyền, ở cung
Hợi ưu hơn ở cung Tị, vì mệnh Cự môn ở cung Hợi thì Thái dương ở đối
cung miếu vượng hóa Quyền ở cung Thiên Di, cổ nhân cho rằng đây là:
"danh chấn tha bang" (nổi tiếng ở nước ngoài) rất có lợi về đi du học.
Thông thường tinh hệ này chủ về biến động thay đổi, hoặc liên tiếp thay
đổi công việc, phải bôn ba ở đất khách, hoặc bản thân công việc đã có
sắc thái lưu động, sau mới đắc lợi, nhưng về nghề thì vẫn nên có tính
chuyên nghiệp, tính hưởng thụ (như quản lý nhà hàng khách sạn, hàng
không) là tốt nhất.
9- Thiên Lương - can Nhâm hóa Lộc
Thiên Lương là sao "giám sát", chủ về sang quý thanh cao, nên không ưa
hóa thành sao Lộc. Trong mười can Hóa Lộc, đây là trường hợp rất kị. Khi
Thiên lương hóa Lộc sẽ tăng phiền phức quấy rối, còn bất lợi về kinh
doanh làm ăn. Lúc này, nên chú ý tính chất của cung Giao hữu (cung Nô),
đó là then chốt để luận đoán toàn Cục.
Hễ Thiên lương hóa Lộc, ắt sẽ bị người ta bài xích, chèn ép, chỉ trích,
nhất là trường hợp Thiên Lương ở hai cung Tị hoặc Ngọ. Chỉ nên làn những
nghề mang tính phục vụ, công khai tiền lương, như chuyên viên kế toán,
cố vấn tài chính, phục vụ công cộng, không nên theo đuổi danh tiếng.
Thiên Lương chủ về hóa giải tai nạn, sau khi hóa Lộc, thời gian hóa giải
thường bị kéo dài hơn, khiến cho mệnh tạo cảm thấy rắc rối đa đoan. May
mà kết quả hóa giải rắc rối được hoàn mỹ, còn không để lại di chứng.
Đây là thông bệnh của Thiên lương hóa Lộc.
Thiên lương độc tọa thủ Mệnh hóa Lộc ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung là
Thái dương có Kình dương đồng độ, hoặc hội hợp với Kình Đà, nhóm tinh
hệ này đã có sắc thái rắc rối thị phi. Ở cung Tý tốt hơn ở cung Ngọ, đây
là do tình trạng miếu hãm của Thái dương. Cung Sự nghiệp (cung Quan) là
Thiên đồng. Cung Tài là "Thiên cơ Thái âm", đều chẳng phải là các sao
có sắc thái tích cực. Vì vậy nếu kinh doanh làm ăn, ắt chủ về gặp nhiều
rắc rối, không bằng những nghề nghiệp mang tính chuyên môn để kiếm tiền.
Nhưng khiếm khuyết đáng tiếc lớn nhất của mệnh tạo là ở cung Giao hữu
(Nô). "Vũ khúc Phá quân" hóa Kị, bản thân dễ ăn của đút lót, ắt sẽ bị
người dưới quyền chỉ trích. Mệnh tạo khéo léo xử sự như thế nào, điều
này sẽ ảnh hưởng cực lớn đến vận mệnh.
Thiên lương độc tọa thủ Mệnh hóa Lộc ở hai cung Sửu hoặc Mùi, đối nhau
với Thiên cơ. Cung Sự nghiệp (Quan) là Thiên cơ. Cung Tài là Thái âm.
Nhóm tinh hệ này ưa Thiên lương ở cung Sửu, vì Thái dương ở cung Tị,
Thái âm ở cung Dậu, chúng đều miếu vượng. Thái dương chủ về "quý" khi ở
cung Quan, Thái âm chủ về "phú" khi ở cung Tài, bản chất là rất thích
hợp. Cho nên địa vị và tài bạch của mệnh tạo đều không lo thiếu, khi
Thiên lương thủ Mệnh ở cung Mùi thì tệ hơn nhiều. Nhưng hễ Thiên lương
hóa Lộc, mỗi lần có khoảng thời gian rắc rối khó sử xảy ra, cần phải lưu
ý đến Vũ khúc hóa Kị ở nguyên cục bị cát hóa ở đại hạn hay lưu niên
xung khởi, đây là thời kỳ có bất hòa, tranh chấp về tiền bạc. Vũ khúc
hóa Kị ở cung Điền, doanh nhân dễ vì xoay chuyển tiền bạc khó khăn mà
đình chỉ công việc kinh doanh.
Tinh hệ "Thiên đồng Thiên lương" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân mà
Thiên lương hóa Lộc, hội Kình dương hoặc hội Đà la. Cung Quan là Thiên
cơ. Cung Tài là Thái âm độc tọa. Nhóm tinh hệ này thiếu tính tích cực,
vốn thuộc loại kết cấu an nhàn, yên tịnh. Có điều Thiên lương hóa Lộc
gây ra biến đổi toàn cục, phần nhiều những tình huống rắc rối khó xử đều
liên quan đến tiền bạc. Cung Nô là "Tử vi Phá quân" mà Tử vi hóa Quyền,
lại hội "Vũ khúc Thất sát" mà Vũ khúc hóa Kị, nếu có Sát tinh hội hợp,
thường thường là gặp tình cảnh "đầy tớ phản chủ", người dưới quyền là
người tâm phúc do bản thân mệnh tạo chọn lựa đề bạt lại biến thành đại
họa. Nếu cách kiếm tiền không chính đáng sẽ dễ bị thuộc cấp thừa cơ phản
chủ.
Tinh hệ "Thái dương Thiên lương" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà
Thiên lương hóa Lộc. Cung Quan mượn "Thiên đồng Cự môn" nhập cung. Cung
Tài là Thái âm độc tọa. Nhóm tinh hệ này cũng không thích hợp làm ăn
kinh doanh, chủ về tiền bạc phải dựa vào địa vị hoặc tri thức mới có.
Nhưng Thiên lương hóa Lộc thì vẫn không tránh được chuyện bị thuộc cấp
gây lụy. Đại hạn hoặc lưu niên xấu nhất cũng thường ở cung hạn Vũ khúc
hóa Kị, chủ về người dưới quyền gây lụy, hoặc chủ về sức khỏe không tốt,
cần phải xem xét các cung liên quan mà định, nhất là phải lưu ý đến
cách "Linh Xương Đà Vũ".
Tinh hệ "Thiên cơ Thiên lương thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, mà
Thiên lương hóa Lộc ắt sẽ gặp Sát tinh. Cung Quan mượn "Thái dương Cự
môn". Cung Tài là "Thiên đồng Thái âm" ắt cũng sẽ gặp Sát tinh. Nhóm sao
này tuy không phải là chính cách "Cơ Nguyệt Đồng Lương" nhưng cũng
thích hợp làm công chức. Có điều trong 12 cung, hai cung Thìn và Tuất
rất kị Thiên lương hóa Lộc, ngoài việc mượn lực của "Thái dương Cự môn"
nhập cung Quan, thì không còn đạo "tìm cát tránh hung" nào khác. Cho nên
Cơ Lương ưa ở cung Thìn hơn, vì Cự Nhật sẽ ở cung Dần, nếu cung chứa Cự
Nhật gặp các sao Sát - Hình trùng trùng, thì thường vì tiền bạc mà xảy
ra kiện cáo, tố tụng.
Thiên lương độc tọa thủ Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Tị hoặc Hợi, có Thiên
đồng ở đối cung, lại hội Lộc tồn trùng điệp. Cung Tài là "Thái dương
Thái âm". Cung Quan phải mượn "Thiên cơ Cự môn" nhập cung để hội hợp với
cung Mệnh. Vấn đề lớn nhất của nhóm tinh hệ này là sức khỏe vì Vũ Khúc
hóa Kị ở cung Tật ách. Bản thân tinh hệ cũng thiếu tính tích cực, chỉ
thích hợp với cảnh làm hưởng đồng lương để có tiền. Có điều vì mệnh tạo
thường dễ cảm thấy thỏa mãn, thường ba phải dễ chấp nhận, nên khó xảy ra
tình huống rắc rối khó xử. Ở hai cung này lại thường chủ về đất đai nhà
cửa của ông bà hay cha mẹ để lại bị phá sạch, trường hợp Thiên lương
thủ Mệnh ở cung Tị nặng hơn, nhưng rời xa quê hương lại tốt.
10- Phá Quân - can Quý hóa Lộc
Phàm là Phá Quân thủ Mệnh hoặc thủ cung Tài, sẽ xảy ra biến động thay
đổi ở nhiều biên độ, mà sự biến động thay đổi cũng thường ra ngoài dự
liệu. Khi được hóa Lộc hoặc có Lộc tồn, có thể khiến sự biến động thay
đổi trở thành khá ổn định; trong tình huống xấu nhất cũng không đến nỗi
xảy ra thất bại hoàn toàn. Hơn nữa, bất kể biến động hay thay đổi như
thế nào, kết quả thường sẽ tốt hơn so với trước khi xảy ra biến động
thay đổi. Do nguyên nhân này, nên Phá quân rất ưa hóa Lộc.
Hễ Phá quân hóa Lộc, cung Quan ắt sẽ có Tham lang hóa Kị, đây là điềm
tượng sự nghiệp có biến động thay đổi. Tham lang hóa Kị thường thường sẽ
có hiện tượng "vô tâm cắm liễu, liễu xanh um", cho nên rất ưa Phá quân
hóa Lộc. Có điều cung Tài là Thất sát, cũng dễ trở thành biến đông thay
đổi, cuộc đời ắt sẽ có một lần gặp cảnh khốn khó. Phá quân hóa Lộc chỉ
có thể cải thiện, mà không thể tránh.
Phá quân độc tọa thủ mệnh, hóa Lộc ở hai cung Tý hoặc Ngọ, ắt sẽ hội hợp
Lộc tồn, thành cách "Lộc trùng điệp". Cung Quan là Tham lang hóa Kị.
Cung Tài là Thất sát. Tinh hệ toàn cục vì Phá quân có cách "Lộc trùng
điệp" nên tính chất biến thành tốt lành. Chỉ cần lưu ý "Tử vi Thiên phủ"
đồng độ ở cung Phúc, nếu là "bách quan triều củng" thì quá thiên nặng
về "thủ thành", không thích ứng với tính chất của Phá quân "Lộc trùng
điệp". Trái lại, sẽ dễ có những phản ứng sai lầm, tiến thoái không hợp
thời cơ. Nếu "Tử vi Thiên phủ" là cách "tại dã cô quân", thì Phá quân
"Lộc trùng điệp" lại có biểu hiện sống cô lập, cũng không nên. Vì vậy
mấu chốt để luận đoán tinh hệ này là cung Phúc nên trung hòa.
Tinh hệ "Tử vi Phá quân" thủ Mệnh, mà Phá quân hóa Lộc ở hai cung Sửu
hoặc Mùi, hội "Liêm trinh Tham lang" ở cung Quan có Tham lang hóa Kị.
Cung Tài là "Vũ khúc Thất sát". Do bản chất của cung Quan, nên nhóm tinh
hệ này chủ về khuếch trương sự nghiệp một cách quá đáng, đặc biệt là
làm ăn trong lĩnh vực kinh doanh tiêu dùng, thường lập nhiều chi nhánh,
làm tăng thêm tình huống rắc rối. Ngoài ra lại vì quá mải mê kiếm tiền,
"thấy lợi quên nghĩa" khiến dễ xảy ra sự thay đổi trong quan hệ giao tế,
thiếu trợ lực, đời người khó tránh quá vất vả. Cung Tài là "Vũ khúc
Thất sát" cũng chủ về tính toán cẩn thận, đồng thời lại có hào khí dám
mạo hiểm, cần phải xem xét kỹ vận hạn để định nên làm hay nên dừng.
Phá quân đọc tọa thủ Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Dần hoặc Thân, đối cung là
"Vũ khúc Thiên tướng". Cung Tài là Thất sát. Cung Quan là Tham lang hóa
Kị, ắt sẽ có Lộc tồn hội hợp. Lực phát đông của nhóm tinh hệ này là ở
Tham lang hóa Kị, hội Lộc tồn và Phá quân hóa Lộc, vì vậy thường hay sửa
đổi mục tiêu tiến thủ mà không biết dừng lại. Thất sát thủ cung Tài ở
nhóm tinh hệ này có đặc tính giỏi tính toán, khéo dùng tiền để tạo giao
tình, lôi kéo người ủng hộ, do đó tính chất của Phá quân hóa Lộc sẽ phát
lộ không xót chút nào. Cung Tật là "Thái dương Thiên lương", gặp Sát
tinh là chỗ tổn thương chí mạng của nhóm tinh hệ này. Vì vậy cần phải
lưu ý vấn đề sức khỏe.
Tinh hệ "Liêm trinh Phá quân" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Phá
quân hóa Lộc hội Kình dương hoặc Đà la. Tinh hệ này cũng là tổ hợp sao
có tham vọng khá lớn, cho nên sự nghiệp của đương số cũng là cục diện
lớn, phần nhiều có liên quan đến lĩnh vực giải trí, vui chơi, nghệ thuật
hoặc tiêu dùng, hưởng thụ. Do tính chất của cung Tài, nên khi vận dụng
tiên bạc, thường có tình huống như "Hàn Tín điểm binh", càng nhiều càng
tốt, cần phải lưu ý đến đại hạn hoặc lưu niên để "tìm cách tránh hung".
Phá quân độc tọa thủ Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Thìn hoặc Tuất, đối cung
là "Tử vi Thiên tướng". Cung Tài là Thất sát gặp sao Lộc. Cung Quan là
tham lang hóa Kị. Phá quân ở "thiên la địa võng" thì lực biến động thay
đổi không nhiều, nên cuộc đời tương đối ổn định, nhưng thường có biểu
hiện gánh vác công việc quá mức, hoặc kiêm nhiệm nhiều chức vụ, đúng với
hiện tượng "người giỏi thì làm nhiều". Cung Tài là Thất sát gặp sao Lộc
(ở cung Tý còn là "Lộc trùng điệp") thu nhập tất phải nhiều. Khuyết
điểm của tinh hệ này là sau trung niên, phần nhiều đều thích hợp với
người khác để làm ăn, nhưng thường lại là kết quả xấu.
Tinh hệ "Vũ khúc Phá quân" thủ Mệnh, mà Phá quân hóa Lộc ở hai cung Tị
hoặc Hợi, ắt sẽ gặp Sát tinh. Cung Tài là "Liêm trinh Thất sát" cũng gặp
Sát tinh. Cung Quan là "Tử vi Tham lang" mà Tham lang hóa Kị, lại cũng
gặp Sát tinh. Ba cung chủ yếu đều gặp Sát tinh, trở thành điều tổn
thương chí mạng của nhóm tinh hệ này, do đó cuộc đời gặp nhiều trắc trở,
biến động thay đổi không như lý tưởng, mà còn thiếu trợ lực, khiến vất
vả thậm tệ. Cung Tài quá không ổn định, vốn liếng tiền bạc không đủ để
chống đỡ sự nghiệp, do đó tăng thêm áp lực về mặt tinh thần. Hơn nữa sau
trung niên còn xảy ra nhiều tình huống rắc rối trắc trở, khiến cho đời
người có nhiều điều đáng tiếc. Nhưng Phá quân hóa Lộc, dù sự nghiệp trắc
trở, vẫn có thể duy trì thu nhập, đây là ưu điểm của tinh hệ này.
11- Phá Quân - can Giáp hóa Quyền
Phá Quân hóa Quyền không bằng hóa Lộc. Hóa Lộc có thể khiến cho quá
trình thay đổi thuận lợi, có kết quả tốt đẹp, nhưng lúc hóa Quyền thì
không thể đảm bảo một cách chắc chắn rằng sẽ tránh được thất bại.
Sắc thái đặc biệt của Phá quân hóa Quyền là ở phương diện thanh thế.
Nhưng thanh thế lớn có lúc chỉ có thể khiến cho người khác dễ có khuynh
hướng nghe theo ý kiến của bản thân mệnh tạo, vẫn không thể tránh được
các tình huống trắc trở, rắc rối. Thâm chí nhiều khi còn xuất hiện tình
huống này, người Phá quân hóa Quyền thủ Mệnh, có ý muốn thay đổi hoàn
cảnh khách quan (ví dụ như muốn kinh doanh thêm một ngành khác), mà bản
thân mệnh tạo không nắm chắc tình hình thực tế, nhưng sau khi mang suy
nghĩ của mình nói cho người khác nghe, người khác lại cho rằng bản thân
họ đã có thành tựu và không ngừng thúc dục, thậm chí còn trợ giúp cụ
thể, rốt cuộc thành thế cưỡi lưng cọp, không tiến hành không xong.
Cho nên trong đại hạn gặp Phá quân hóa Quyền thủ cung Mệnh, cung Quan
hay cung Tài thì cần phải lưu ý, lúc gặp lưu niên không tốt thì không
được mạo muội đưa ra chủ ý của mình, để tránh âm dương không phối hợp,
rốt cuộc bị buộc phải thay đổi trong hoàn cảnh đầy trắc trở.
Hễ Phá quân hóa Quyền thì Liêm trinh ắt sẽ hóa Lộc, nhưng Lộc của Liêm
trinh có tài khí không lớn, không đủ để ỷ lại. Chỉ khi nào có kết cấu
sao Cát tường, thanh thế của Phá quân hóa Quyền mới có lợi để tiến hành
sự việc.
Phá quân thủ Mệnh hóa Quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung là "Liêm
trinh Thiên tướng" mà Liêm trinh hóa Lộc. Cung Quan là Tham lang độc
tọa. Cung Tài là Thất sát cũng độc tọa có Lộc tồn đồng độ hoặc vây
chiếu, ở tam phương tứ chính đều không gặp Kình dương và Đà la. Tinh hệ
có kết cấu dạng này khá tốt lành, có lợi về khai triển sự nghiệp, tài
lộc cũng theo đó mà tăng lên, nhưng không được có Địa không Địa kiếp Hỏa
tinh Linh tinh hội chiếu Phá quân. Tinh hệ kết cấu dạng này ở tinh bàn
nguyên cục có thể nói là cách cục đẹp, dù đại hạn hoặc lưu niên gặp kết
cấu này, cũng chủ về biến động thay đổi theo hướng cát tường. Nhưng nhóm
tinh hệ này, cổ nhân lại cho rằng không thích hợp với nữ mệnh, chủ yếu
là về phương diện hôn nhân. Cung Phu thê là Vũ khúc hóa Khoa hội "Tử vi
Thiên phủ", lại hội "Liêm trinh Thiên tướng" mà Liêm trinh hóa Lộc (Phá
quân ở cung Tý thì Vũ khúc còn hội Lộc tồn), kết cấu dạng này thường dễ
xảy ra tình huống thay lòng đổi dạ, bất mãn chồng, do đó ảnh hưởng đến
đời sống hôn nhân.
Tinh hệ "Tử vi Phá quân" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Phá quân
hóa Quyền (đồng độ với Đà La, hoặc hội Kình Đà). Cung Quan là "Liêm
trinh Tham lang" có Liêm trinh hóa Lộc. Cung Tài là "Vũ khúc Thất sát"
có Vũ khúc hóa Khoa. Ở tam phương đều gặp Sát tinh. Tuy gặp Kình Đà
nhưng ở cung Mệnh mà gặp nhóm tinh hệ này, vẫn có thể xem là thượng
cách. Nếu tam phương là Hóa Lộc Hóa Quyền Hóa Khoa tụ hội, phối trí quân
bình, thì Kình Đà chỉ chủ về tình huống căng thẳng mà thôi. Đời người
không thể thập toàn thập mỹ, không thể việc gì cũng thuận lợi, vì vậy
không thể xem đây là khuyết điểm trọng đại. Nhóm tinh hệ này có biểu
hiện chủ động, còn có sở trường giao tế, có thể lợi dụng quan hệ giao du
để trợ giúp cho công việc làm ăn, cũng thường thích đầu tư vốn lớn vào
sự nghiệp mới, đầu óc linh hoạt và tinh tế sắc sảo. Chỉ có một khuyết
điểm lớn, đó là người dưới quyền không đắc lực, nên khó tránh khỏi phải
vất vả, mà còn bất lợi nếu phát triển ở tha hương.
Phá quân độc tọa thủ Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Dần hoặc Thân, có Lộc tồn
đồng độ hoặc vây chiếu, đối cung là "Vũ khúc Thiên tướng" mà Vũ khúc hóa
Khoa. Cung Tài là Thất sát. Cung Quan là Tham lang. Phá quân có sao Lộc
được hóa Quyền, cho nên lực "xung kích" cực kỳ mạnh, thanh thế cũng
lớn, có thể nói là đời người nhiều biến đổi, nhiều đột phá, thường không
giữ một nghề. Cung Di là "Vũ khúc Thiên tướng", mà Vũ khúc hóa Khoa,
còn có Lộc tồn hội hợp, thành cách "Lộc Quyền Khoa hội cách", do đó rất
có lợi đối với người Phá quân hóa Quyền thủ Mệnh, có thể rời khỏi quê
hương để phát triển, hoặc có khả năng chủ động sửa đổi hoàn cảnh khách
quan, thường thường có kết quả tốt hơn ban đầu. Chỉ có một điều tệ hại
là Thất sát hội sao Lộc ở cung Tài, tài lộc vượng mà không giỏi quản lý,
thêm vào đó cung Huynh và cung Nô đều không ổn định, về phương diện
quản lý tài chính lại không thể ủy thác cho người khác, nên dễ có hiện
tượng tài chính vượt khỏi tầm kiểm soát.
Tinh hệ "Liêm trinh Phá quân" thủ mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, có Liêm
trinh hóa Lộc đồng độ với Phá quân hóa Quyền. Xin tham khảo ở đoạn "Liêm
trinh hóa Lộc".
Phá Quân độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Thìn hoặc Tuất. Cung
Quan là Tham lang độc tọa, có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, đồng thời
ắt cũng có Liêm trinh hóa Lộc vây chiếu. Cung Tài là Thất sát độc tọa
(chỉ có Thất sát tọa cung Ngọ mới hội Lộc tồn). Cung Quan có sao Lộc
nặng, cung Tài có sao Lộc nhẹ, cho nên ý nghĩa của Phá quân hóa Quyền có
thể biến thành nắm quyền tài chính, mà không thể tích lũy tiền của. Nếu
kinh doanh làm ăn, thì thường giỏi "công" mà không giỏi "thủ", thậm chí
vượt quá tầm kiểm soát. Cần phải tích lũy cho đến lúc có tài lực kha
khá, mới phát động đột phá một lần, như vậy sẽ tốt hơn là cứ hay thay
đổi lặt vặt. Đây là đạo "tìm cát tránh hung" cải thiện vận mệnh đời
người. Đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ có kết cấu kiểu này, cần
phải tham khảo thêm vận hạn sau để tính toán phương cách hành động. Tinh
hệ này sở trường về ra quyết sách, cho nên làm việc trong lĩnh vực tài
chính kinh tế là tốt nhất. Cung Di có Lộc Quyền Khoa tụ hội, cho nên
cũng có lợi về chuyển đi xa. Chỉ có một khuyết điểm là không giỏi xử lý
theo chế độ công ty, nên tâm chí thường có cảm giác bị rối loạn.
Tinh hệ "Vũ khúc Phá quân" thủ Mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, mà Vũ khúc
hóa Khoa còn Phá quân hóa Quyền. Cung Quan là "Tử vi Tham lang" ắt sẽ có
Kình Đà hội chiếu hoặc Kình dương đồng độ. Cung Tài là "Liêm trinh Thất
sát" mà Liêm trinh hóa Lộc ắt cũng có Kình Đà hội chiếu, hoặc Đà la
đồng độ. Nhóm tinh hệ này, người đời Thanh có thuyết: "Vũ khúc Phá quân
Hóa Khoa Hóa Quyền, nhậm chức về quân nhu", do đó có thể thấy sắc thái
đặc biệt của nó. Giỏi quản lý tài chính, giỏi kiếm tiền, là hai đặc điểm
lớn nhất của tinh hệ này. Nếu kinh doanh làm ăn, thì khó tránh vì tham
vọng quá lớn mà làm tăng vất vả khổ lụy, nhưng lại dễ khiến cho người
khác phải giật mình vì thành tích của mệnh tạo. Nhóm tinh hệ này đồng
thời cũng có một nguy cơ, đó là do làm việc quá vất vả nên dễ ảnh hưởng
đến sức khỏe. Thích hợp với những ngành nghề kinh doanh phục vụ, có tính
chất tiêu dùng. Nếu nhậm chức làm công hưởng lương, thì nên đề phòng có
quan hệ không tốt đối với thượng cấp. Vì Thái dương hóa Kị ở cung Phụ
mẫu, cũng dễ xảy ra tình huống soi bói, bới móc. "Vũ khúc Phá quân" ở
cung Hợi thì càng nặng.
12- Thiên Lương - can Ất hóa Quyền
Thiên Lương tính chất có sang quý thanh cao, khi Hóa Lộc sẽ hình
thành sự mâu thuẫn về bản chất, nhưng Hóa Quyền thì không có ảnh hưởng,
trái lại còn làm mạnh thêm mức độ sang quý thanh cao.
Ví dụ như thiên Lương đủ sức đảm nhiệm chức vụ quản đốc, giám đốc quản
lý công tác, nếu hóa Quyền thì có thể có địa vị của một chuyên viên như
chuyên viên kiểm toán, chuyên viên khảo sát, cho đến luật sư, .v.v...
Thiên Lương hóa Quyền mà có nhiều sao phụ tá hội chiếu hoặc đồng độ,
không những là tượng trưng cho quyền lực, mà còn tượng trưng cho địa vị.
"Địa vị" nói ở đây không phải nói về "địa vị" do sự giầu có (xã hội
ngày nay có phong khí xem trọng "phú" mà không xem trọng "quý", do đó
mới xảy ra hiện tượng phân biệt như vậy), mà là nói "địa vị" của người
được tôn trọng, được tôn sùng. Ví dụ như giáo sư, nhà văn, nhà nghiên
cứu học thuật, hoặc các chuyên viên cao cấp được xem trọng trong các
lĩnh vực, .v.v...
Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp Thiên Lương hóa Quyền, thì không mang ý
nghĩa đã thuật ở trên. Bởi vì không chỉ ở trong một đại hạn hoặc một lưu
niên, mà bỗng nhiên trở thành một giáo sư, một chuyên viên cao cấp,
.v.v... nhưng vẫn chủ về uy tín trong một lĩnh vực nào đó. Ví dụ như một
thương nhân, đại hạn gặp Thiên Lương hóa Quyền, có thể trong 10 năm đó
sẽ làm cho thương hiệu của mệnh tạo có tiếng tăm hơn. Ở lưu niên cũng
chủ về đây là năm có thanh danh hơn.
Nhưng tính chất của Thiên lương cũng mang lại những tình huống rắc rối
khó xử, chẳng vì có hóa Quyền mà hết được. Có hóa Quyền chỉ chủ về lúc
hóa giải sẽ gặp ít trở lực hơn một chút, hoặc là lúc gặp nhiều phiền
phức thì mệnh tạo lập tức biết được phương hướng giải quyết, đồng thời
còn được trợ lực rất hữu dụng.
Thiên lương độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung
là Thái dương, hội "Thiên cơ Thái âm" mà Thiên cơ hóa Lộc còn Thái âm
hóa Kị, lại hội Thiên đồng độc tọa; hai nhóm sao này ắt sẽ gặp Kình
dương Đà la. Nếu nguyên cục gặp kết cấu dạng này, có thể nhờ nghiệp dư
để kiếm tiền, hoặc đương số nên làm những nghề có tính "cô khắc và hình
kị" (như khoa dược, khoa y, trật đả, tư pháp, .v.v... ), đồng thời tài
lộc của người này cũng sẽ có ý vị hao tổn tinh thần, hơn nữa dù thừa kế
sự nghiệp của bậc trưởng bối, ắt cũng sẽ trải qua sự biến động thay đổi
triệt để, biến đổi thành cục mới hoàn toàn, giống như tay trắng sáng lập
sự nghiệp. Thời cổ đại không ưa nữ mệnh gặp kết cấu dạng này, bởi vì dễ
vì áp lực của hoàn cảnh khách quan mà thành trụy lạc. Nếu ở lưu niên
hay đại hạn mà gặp tổ hợp tinh hệ này thì ý nghĩa sẽ khác, gặp Cát tinh
là tượng trưng cho cạnh tranh trong sự nghiệp, gặp các Sát tinh tụ tập
thì có thể vướng vào kiện tụng, cũng có thể bị người ta gây trở ngại về
phương diện nguồn tiền bạc, khiến phải hao tổn tinh thần để ứng phó, rốt
cuộc cũng có thể hóa giải phiền phức. Trong các tình huống thông
thường, Thiên lương hóa Quyền ở cung Tý sẽ ưu hơn ở cung Ngọ.
Thiên lương độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Sửu hoặc Mùi (ở cung
Mùi thì Thiên lương có thể hội Lộc tồn), đối cung là Thiên cơ đồng thời
cũng hóa Lộc, hội hợp với Thái dương độc tọa và Thái âm hóa Kị độc tọa.
Tính chất của nhóm tinh hệ này bất lợi về "tài bạch", về cơ bản có thể
định nghĩa là "danh lớn hơn lợi". Bởi vì Thái âm hóa Kị ở cung Tài, nhẹ
nhất thì "tài bạch" cũng khó mà tích lũy được. Nhưng hai sao Thiên cơ và
Thiên lương hóa thành Lộc và Quyền, nên không ảnh hưởng đến thành tựu
và địa vị của mệnh tạo. Trong tình hình gặp Cát tinh và Sát tinh lẫn
lộn, thường lại chủ về tính chất đặc thù như sau: phải có liên quan đến
tình hình rối ren về tài chính. Vương Đình Chi từng gặp một trường hợp
thực tế, người này có địa vị trong nghề nghiệp, nhưng chỉ thu nhập bình
thường, về sau phải bán hạ giá để tuyên bố phá sản. Ở lưu niên hay đại
hạn mà gặp mà gặp nhóm tinh hệ này, không tuyệt đối chủ về tiền của. Nếu
Sát tinh nặng, thường cũng bất lợi về sức khỏe. Tính chất cơ bản bất
lợi về "tài bạch" là do nhìn quá cao, hoặc tự tin quá đáng, vì vậy mà bị
dẫn dụ đầu tư rồi thất bại, về sức khỏe là do quá lo nghĩ về sự nghiệp
và tiền tài mà mắc bệnh liên quan đến hệ thần kinh.
Tinh hệ "Thiên đồng Thiên lương" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà
Thiên lương hóa Quyền. Cung Quan là Thiên cơ ắt cũng hóa Lộc. Cung Tài
là Thái âm đồng thời cũng hóa Kị. Ba nhóm tinh hệ này tất phải gặp Kình
dương và Đà la. Tinh hệ "Thiên đồng Thiên lương" vốn là những sao thương
hay "tâm trạng hóa" cực nặng. Sau khi Thiên lương hóa Quyền thì tâm
trạng có thể ổn định hơn, nhưng lại dễ chuốc rắc rối khó xử về tình cảm,
khiến ảnh hưởng đến sự thành tựu trong sự nghiệp. Nhưng phần nhiều
đương số lại thích thú trong những tình huống rắc rối khó xử về tình cảm
này, và quy về triết lý coi cuộc đời là hư ảo. Nếu chúng gặp những sao
hiếu động, trôi nổi, như các sao Thiên hư, Thiên không, Thiên mã, Hỏa
tinh, thì sẽ chủ về lãng đãng giang hồ. Ở lưu niên hay đại hạn mà gặp
các tổ hợp sao này, thì sự nghiệp và tiền bạc đều không ổn định.
Tinh hệ "Thái dương Thiên lương" thủ mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, có
Lộc tồn đồng độ vây chiếu. Thiên lương hóa Quyền thì sao hội hợp là Thái
âm ắt sẽ đồng thời hóa Kị (Hóa Kị ở cung Hợi thì tốt), hai sao hội hợp
khác là mượn "Thiên đồng Cự môn" nhập cung. Nếu thành cách "Dương Lương
Xương Khúc" thì lợi về thi cử và cạnh tranh, đồng thời cũng thích hợp
tạo dựng tiếng tăm hoặc thương hiệu. Nhưng nếu gặp các sao Sát - Hình,
thì nhóm tinh hệ này sẽ ngầm mang lại những tình huống rắc rối khó xử.
Ví dụ như vốn đang có một kế hoạch có lợi, nhưng vì nguyên nhân nào đó
mà quyết định hủy bỏ, hủy bỏ rồi vẫn chưa biết là có tổn thất, một thời
gian khá lâu sau mới biết đó là thất sách. Ở đại hạn hoặc lưu niên mà
gặp nhóm tinh hệ có kết cấu kiểu này, thì tính chất đã thuật ở trên càng
rõ nét. Nếu các Sát tinh - Hình tinh nặng, lại gặp thêm Đại hao, Âm sát
ở niên hạn thì gặp kiện tụng, phạm pháp. Thiên lương hóa Quyền chỉ chủ
về rốt cuộc cũng hóa giải được tai nạn.
Tinh hệ "Thiên cơ Thiên lương" thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, Thiên
lương hóa Quyền thì đồng thời thiên cơ ắt cũng hóa Lộc. Xin tham khảo
đoạn "Thiên cơ hóa Lộc" đã thuật ở trên.
Thiên lương độc tọa thủ Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Tị hoặc Hợi, đối cung
là Thiên đồng, cung tam hợp mượn "Thiên cơ Cự môn" mà Thiên cơ hóa Lộc
gặp Lộc tồn, hai sao hội hợp khác là "Thái dương Thái âm" mà Thái âm hóa
Kị. Thiên lương hóa Quyền ở cung độ này, tuy có năng lực tiêu giải tai
nạn, nhưng đồng thời cũng làm tăng tai nạn trong cuộc đời. Nhất là Mệnh
an tại cung Tị thì tính chất hung hiểm càng lớn. Thiên lương hóa Quyền
bất quá chỉ khiến lúc xảy ra hoạn nạn, thì mệnh tạo sẽ biết cách hóa
giải mà thôi. Đối với nữ mệnh thì phần nhiều gặp rắc rối về tình cảm,
còn có sắc thái độc đoán, vì vậy các tình huống rắc rối khó xử là do bản
thân mệnh tạo gây ra. Thiên lương hóa Quyền ở cung Tị, cũng làm mạnh
thêm sắc thái thần bí của công việc.
13- Thiên Cơ - can Bính hóa Quyền
Thiên Cơ bản chất là hiếu động, trôi nổi, sau khi hóa Quyền sẽ biến nó
thành khá ổn định. Thiên cơ có bản chất linh động, sau khi hóa Quyền
khiến bản chất linh động của nó càng có hiệu suất. Nhưng tăng hiệu suất,
không nhất định sẽ cải thiện hoàn toàn hiệu quả của lối xử sự.
Trong các tình huống thông thường, Thiên cơ thích hóa Quyền. Khi hóa
Quyền ở cung Mệnh của nguyên cục, thường sẽ khiến mệnh tạo trở nên uyển
chuyển, khéo ăn khéo ở, có chí tiến thủ, sống có mục đích.
Thiên cơ vốn không chủ về quyền lực, chỉ trong tình huống hóa Quyền mới
có biểu hiện quyền lực một cách vừa phải, nhưng vẫn không chủ về có thực
quyền. Ví dụ như ý kiến của bản thân mệnh tạo được người ta xem trọng,
tạo nên hiệu quả trong công việc, nhưng mệnh lệnh thực hiện trong thực
tế lại không phải là do mệnh tạo đưa ra.
Thiên Cơ mang lại sự biến động thay đổi, thoạt nhìn thì giống như được
quyền chủ động, nhưng trên thực tế lại là bị động. Sau khi Thiên Cơ hóa
làm sao Quyền, lực chủ động sẽ được tăng lên nhiều. Vì vậy cũng có khả
năng khống chế và làm chủ được sự phát triển của tình thế. Giả dụ như
Thiên cơ vốn là hóa Kị ở nguyên cục, rồi sau lại hóa làm sao Quyền, đây
là tổ hợp sao có tính chất khá xấu. Trong lưu niên hoặc đại hạn, thường
bị chủ động dẫn đến những thay đổi không cần thiết, hoặc chủ về lạm
quyền, lộng quyền mà chuốc lấy sự phiền phức, thường muốn tiến thì lại
thành thoái, cầu vinh thì lại bị nhục.
Thiên cơ độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ. Cung Tài là
"Thiên đồng Thiên lương" mà Thiên đồng ắt cũng hóa Lộc. Hội hợp cung
Quan là Thái âm độc tọa, đối cung với Thiên cơ là Cự môn cũng độc tọa,
tất sẽ hội Kình dương và Đà la, hoặc đồng độ với Kình dương. Thiên cơ
hóa Quyền trong nhóm tinh hệ này có tính chất khá tốt lành, có thể làm
mạnh thêm ý vị "quyền bính và giầu có", nhất là lúc Thiên cơ thủ Mệnh ở
cung Ngọ, quyền càng cao thì lộc càng trọng, thuộc cách "Cơ Nguyệt Đồng
Lương". Nhưng Thiên cơ hóa Quyền đồng thời làm tăng tính trôi nổi, không
thiết thực của Thiên cơ, chủ về người có thể trốn tránh trách nhiệm một
cách dễ dàng, giỏi chi phối người khác, hoặc mượn lực của người khác mà
thành việc. Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ này, thì không có
tính chất như đã thuật ở trên, thông thường chỉ chủ về có biến động theo
chiều hướng tốt đẹp.
Thiên cơ độc tọa thủ mệnh, hóa Quyền ở hai cung Sửu hoặc Mùi (Thiên cơ ở
cung Sửu còn đồng thời hội Lộc tồn), có Thiên Lương ở đối cung. Cung
Quan có Cự môn độc tọa. Cung Tài có Thiên đồng cũng độc tọa hóa Lộc hội
hợp cung Mệnh. Nhóm tinh hệ này chủ về dễ xảy ra biến động thay đổi
trong cuộc đời, thường sau khi xảy ra biến động thay đổi, cục diện sẽ
thay đổi hoàn toàn, không như dự liệu ban đầu. Cho nên cần phải xem xét
từng đại hạn một cách tỉ mỉ, mới có thể luận đoán tốt xấu, cát hung.
Thông thường, Thiên cơ hóa Quyền ở hai cung Sửu hoặc Mùi có tính chất
bôn ba vất vả, khổ lụy, nhưng vất vả khổ lụy chỉ là vì mục tiêu tạm thời
của đời người mà thôi.
Tinh hệ "Thái âm Thiên cơ" thủ mệnh, mà Thiên cơ hóa Quyền ở hai cung
Dần hoặc Thân. Cung Quan có Thiên lương. Cung Tài có Thiên đồng hóa Lộc.
"Cơ Nguyệt Đồng Lương cách" của nguyên cục vốn không đủ lực tiến thủ,
lúc Thiên cơ hóa Quyền và Thiên đồng hóa Lộc tương hội, sẽ cải thiện
tính chất này, không những làm mạnh thêm lực tiến thủ, đồng thời còn làm
mạnh thêm năng lực vạch kế sách và hiệu suất của công việc. Khi có Văn
xương hóa Khoa đến hội, sẽ tạo thành tính chất khá tốt cho "Cơ Nguyệt
Đồng Lương cách" của tinh hệ Thiên cơ hóa Quyền, có thể tay trắng thành
sự nghiệp, tuy vẫn không thoát khỏi tính chất phải làm việc cho người
khác, cũng không nên tự kinh doanh làm ăn, nhưng vẫn thuộc cách cục rất
phú quý.. Nếu đại hạn hoặc lưu niên gặp nhóm tinh hệ này, cũng chủ về
tiến thủ trong sự nghiệp.
Tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, hội hợp với
Thiên đồng cư Tài và mượn "Thái Dương Thái Âm" nhập cung Quan để hội
hợp. Thiên cơ hóa Quyền thì ắt Thiên đồng sẽ đồng thời hóa Lộc. Nếu
Thiên cơ ở cung Dậu hội Thiên đồng thì có Lộc tồn đồng độ, hoặc có cách
"Lộc trùng điệp". Nhưng bất kể Thiên cơ hóa quyền thuộc loại "Quyền Lộc"
trùng điệp, hay "Cơ Cự đồng lâm", thông thường đều thiếu lực tiến thủ,
cho nên Thiên cơ Hóa Quyền cũng chỉ có thể phát huy mưu trí và quyền
biến, tính cơ động, làm tăng hiệu suất hoạt động của nó. Muốn luận đoán
đánh giá cách cục của nhóm tinh hệ này, cần phải đồng thời xem xét Thiên
lương của cung Phúc mà định. Nếu Thiên lương hội hợp với các sao không
tốt, thì đời người thiếu mục tiêu. Hơn nữa còn phải xem xét cung có Thái
dương đồng độ. Nếu đó là cung ưu thì có thể vinh thân, nếu không tuy
chủ về dư giả, thì cũng khá trôi nổi và không thiết thực.
Tinh hệ "Thiên cơ Thiên lương" đồng độ thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc
Tuất, tương hội "Thiên đồng Thái âm" thủ cung Tài, và mượn "Cự môn Thái
dương" nhập cung Quan để hội hợp. Thiên cơ hóa Quyền thì Thiên đồng ắt
sẽ hóa Lộc, nhưng Thiên cơ cũng dễ hội hợp với Sát tinh. Nhóm sao có kết
cấu kiểu này thích Thiên cơ hóa Quyền, thường có thể nhờ các quyết định
chính xác mà giảm được bớt áp lực của những biến động thay đổi trong
cuộc đời, đồng thời còn làm tăng năng lực vạch kế sách và năng lực lãnh
đạo của bản thân mệnh tạo. Nếu có Văn xương hóa Khoa đồng thời đến hội,
thì đây lại là cách "Cơ Nguyệt Đồng Lương" có tính chất tốt nhất. Ban
đầu vốn có bản chất phú quý không lâu bền, đến đây thì coi như đã được
giải quyết. Bản chất "phú quý không lâu bền" phần nhiều nguyên nhân vì
có những biến động thay đổi không thực sự cần thiết. Nhưng lúc Thiên cơ
hóa Quyền mà còn thành "Lộc Quyền Khoa hội", thì những biến động thay
đổi không cần thiết sẽ bị triệt tiêu, mà chỉ có những biến động thay đổi
với biên độ lớn dẫn đến thành công.
Thiên cơ độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Tị hoặc Hợi, đối nhau
với Thái dương, tương hội "Thiên đồng Cự môn" thủ cung Tài và mượn "Thái
dương Thiên lương" nhập cung Quan để hội hợp. Thiên cơ hóa Quyền ắt sẽ
có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, cung Tài là Thiên đồng sẽ đồng thời
hóa Lộc. Những nhóm sao này, do bản thân Thiên cơ ở hai cung Tị hoặc Hợi
là hai cung thiếu lực tiến thủ, cho nên tuy Quyền Lộc giao nhau, cũng
không thể tích cực tiến thủ, bất quá đời người chỉ khá ổn định, đồng
thời có địa vị mà thôi. Hơn nữa khi đạt tới một địa vị nào đó, thì mệnh
tạo có thể chìm đắm trong thành tựu, nếu có Hỏa Linh Không Kiếp đồng độ
với Thiên cơ, gặp hai sao Hỏa Linh có thể phát triển thành lộng quyền,
gặp hai sao Không Kiếp thì dễ xảy ra trắc trở một cách vô cớ. Nhưng đại
hạn và lưu niên mà gặp nhóm sao này thì không có tính chất như đã thuật ở
trên, vẫn chủ về biến động thay đổi theo hướng cát lợi.
14- Thiên Đồng - can Đinh hóa Quyền
Rất khó xác định tính chất cơ bản của Thiên Đồng hóa Quyền, nên cần
phải quan sát các sao mà Thiên đồng hội hợp, xem nó là Phụ diệu, Tá
diệu, Sát tinh, hay Tạp diệu để luận đoán cụ thể. Dưới đây là trình bày
các nguyên tắc thông thường.
Bản thân Thiên đồng thiếu năng lực khai sáng, khi hóa Quyền có thể
làm tăng sức mạnh của nó, nhưng tình hình "phá tổ thành gia" (phá tổ
nghiệp phải tự lập), "ly tổ tự hưng" (rời quê hương tự làm nên) thì vẫn
khó tránh.
Thiên đồng có sắc thái hưởng lạc, lúc hóa Quyền có thể biến thành
năng lực theo đuổi sự hưởng lạc, suốt ngày chìm đắm trong dục lạc, không
còn thời gian nghĩ đến sự tiến thủ.
Thiên đồng hóa Quyền, có lúc sẽ phát triển thành tính dựa vào quyền thế, ưa đi đường tắt để cầu thành tựu.
Nữ mệnh Thiên đồng hóa Quyền cũng khó luận đoán, bởi vì lúc có các
sao ác sát giao hội, tụ tập, thì Hóa Quyền sẽ dễ khiến mệnh tạo bị cuốn
vào cuộc sống hưởng thụ trụy lạc. Hơn nữa đây không phải là bị hoàn cảnh
khách quan gây ảnh hưởng, mà thường là do bản thân quyết định. Nhưng
lúc các sao Cát tường hội hợp, thì đây là mạng được hưởng phước thanh
nhàn, nhưng lại dễ bị tình trạng suốt ngày không có việc gì làm, nên
phải tìm cách tiêu khiển để giết thời gian. Chỉ trong tình hình có hai
sao Sát tinh và Cát tinh phối hợp thích đáng, thì mới bắt đầu tạo dựng
sự nghiệp của riêng mình, lúc này đời người mới có mục tiêu.
Tinh hệ "Thiên đồng Thái âm" thủ mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ, mà
Thiên đồng hóa Quyền thì Thái âm đồng thời hóa Lộc. Xin tham khảo ở đoạn
"Thái âm hóa Lộc".
Tinh hệ "Thiên đồng Cự môn" đồng độ thủ mệnh ở cung Mùi (hoặc Sửu),
mà Thiên đồng hóa Quyền thì Cự môn sẽ đồng thời hóa Lộc. Cung Quan hội
Thiên cơ độc tọa hóa Khoa. Cung Tài mượn "Thái dương Thiên lương" nhập
cung để hội hợp, đồng thời có Kình Đà hội hợp, hoặc đồng cung với Kình
dương. Sắc thái đặc biệt của nhóm tinh hệ này là Thái âm hóa Lộc ở cung
Phu thê. Thái âm hóa Lộc ở cung Hợi là cát, còn cách tứ hóa "Lộc Quyền
Khoa Kị" đều gặp đủ, cho nên tuy chủ về có ngoại tình, nhưng về phương
diện hôn nhân lại có khuynh hướng lấy được vợ đẹp, được vợ trợ lực. Nữ
mệnh thì chủ về chồng có sự nghiệp tốt, nhưng cũng dễ có tình nhân bên
ngoài. Đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, sẽ chủ về dễ xảy
ra tình huống ngầm có rắc rối về tình cảm. Thiên đồng hóa Quyền còn làm
mạnh thêm sự xung động trong bản thân.
Tinh hệ "Thiên đồng Thiên lương" thủ mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân,
mà Thiên đồng hóa Quyền (ở cung Dần còn đồng độ Lộc tồn), ắt sẽ đồng
thời hội Thái âm độc tọa hóa Lộc ở cung Tài, và hội Thiên cơ độc tọa hóa
Khoa ở cung Quan, thành cách "Lộc Quyền Khoa hội", thông thường đều là
cách cục tốt lành. Nhưng nhóm tinh hệ này lại hoàn toàn có khuynh hướng
làm mạnh thêm đặc tính của Thiên lương. Cho nên thông thường đều chủ về
nhiệt tâm đối với việc công ích, hoặc thích giúp đỡ người khác mà không
ngại vất vả, đồng thời bản thân cũng có sinh hoạt hưởng thụ lành mạnh.
Khuyết điểm của tinh hệ này là Cự môn hóa Kị ở cung Phu thê, nên thường
xảy ra tranh cãi ồn ào không càn thiết, có thể dẫn đến có tình cảm với
người bên ngoài, nhưng không vì vậy mà ảnh hưởng đến sự nghiệp. Ở đại
hạn hoặc lưu niên gặp tinh hệ này thì không mang ý nghĩa ngoại tình và
vợ chồng tranh cãi ồn ào như gặp ở nguyên cục. Mà chủ về sáng lập sự
nghiệp và có công trạng, chí ít cũng chủ về xảy ra chuyển biến theo
hướng tốt lành.
Thiên đồng độc tọa thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, gặp Kình dương
hoặc Đà la, có Thái dương ở đối cung hóa Lộc, có Thiên cơ hóa Khoa và Cự
môn hóa Kị hội hợp. Đây là cách tứ hóa "Lộc Quyền Khoa Kị" đều gặp đủ,
chủ về làm những nghề mang tính phục vụ , cần đến tài ăn nói để kiếm
tiền, đây là phương hướng phát triển tốt nhất. Thiên đồng hóa Quyền ở
cung Mệnh không chủ về phát đột ngột, chỉ chủ về sự nghiệp phát triển
vững chắc, thông thường cuộc sống cũng nhàn hạ. Ở thời hiện đại, tinh hệ
này cũng thích hợp với nghề bán lẻ. Thông thường "Cơ Nguyệt Đồng Lương"
không thích hợp tự kinh doanh làm ăn, nhưng gặp tinh hệ kết cấu kiểu
này thì cũng có thể suy tính đến việc kinh doanh bán lẻ. Có điều không
nên đầu cơ, không nên hợp tác với người khác.
Thiên đồng độc tọa thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, ưa Cự môn hóa
Kị ở đối cung "kích phát", hội hợp Thiên lương và "Thái âm Thiên cơ" hóa
Lộc hóa Khoa. Thiên đồng ở cung Tuất rất ưa gặp Lộc tồn bay đến cung
Ngọ, gọi là "phản bối", chủ về "qua cơn mưa trời lại sáng". Dù Thiên
đồng ở cung Thìn cũng chủ về phát vượt lên. Vì vậy, trong các tình huống
thông thường, có thể nói Thiên đồng rất ưa cung hạn Hóa Quyền. Đặc biệt
cần phải chú ý cung Phúc đức, Thái dương độc tọa tương hội Thiên lương,
chủ về thích hợp nghiên cứu học thuật, ý nghĩa sâu hơn nữa là, thích
hợp với những công việc đòi hỏi lao tâm nhiều hơn lao lực. Nhưng ở đại
hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ có dạng kết cấu này, thì không có
những tính chất như đã thuật ở trên. Còn rất ngại Cự môn hóa Kị, mang
lại quấy nhiễu, gây khó khăn, thường chủ về gặp những tình huống rắc rối
khó xử về tình cảm.
Thiên đồng độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Tị hoặc Hợi, gặp
Kình Đà hoặc đồng độ với Đà La, Thiên lương độc tọa ở đối cung. Mượn
"Thái dương Thái âm" mà Thái âm hóa Lộc để hội hợp, và hai sao hội hợp
khác là "Thiên cơ Cự môn" hóa Khoa hóa Kị. Đây cũng thành cách "Lộc
Quyền Khoa Kị" đều gặp đủ, nhưng do vị trí hội hợp có khác nhau nên tính
chất cũng khác nhau. Nếu so sánh thì đây là kết cấu bất lợi về hôn
nhân, "Thiên cơ Cự môn" ở cung Phu thê, mà Cự môn hóa Kị làm mạnh thêm ý
vị "phá sạch". Nói về sự nghiệp thì vẫn có thể luận đoán là tốt lành,
nhưng muốn trong sự nghiệp không bị đố kị, thị phi, oán trách, thì nên
trọn những ngành nghề cần tài ăn nói để kiếm tiền, sẽ có hiệu quả với
đạo "tìm cát tránh hung". Ưa đi đường tắt, vốn là biểu hiện rất cụ thể
của nhóm tinh hệ này, đây cũng là nhân tố dẫn đến oán trách thị phi.
15- Thái Âm - can Mậu hóa Quyền
Thông thường Thái Âm hóa Quyền có thể mang lại tính chất Cát - Lợi. Ý
nghĩa trực tiếp nhất là làm mạnh thêm quyền kiểm soát tài chính. Nhưng
cần chú ý, "tài tinh" Thái âm khác với "tài tinh" Vũ khúc. Nếu so sánh,
thì Thái âm mang ý nghĩa trìu tượng, nên "quyền tài chính" không phải là
giầu có, mà là nói mệnh tạo có thể vận dụng tiền bạc một cách tốt nhất
(ở xã hội hiện đại, người trong giới làm ăn kinh doanh thường có tính
chất này).
Đối với Thái âm lạc hãm, lúc hóa Quyền sẽ giúp cải thiện một số tính
chất xấu. Ví dụ: vốn bất lợi đối với mẹ, chị em gái, hoặc vợ và con
gái, nhưng khi hóa Quyền thì giảm nhẹ tình huống bất lợi, như "sinh ly"
thì biến thành "gặp nhau ít mà xa nhau nhiều", .v.v... Cần phải xem
tình hình cụ thể của từng vận hạn mà định. Có điều, nếu Thái âm lạc hãm
bị hóa thành sao Kị ở nguyên cục, mà lúc ở đại hạn hoặc lưu niên lại hóa
thành sao Quyền, thì thường sẽ biến thành lực "kích phát" rất bất lợi.
Nam mệnh Thái âm hóa Quyền sẽ có sức hút đặc biệt đối với người khác
giới. Nhưng tình cảm dành cho người khác giới vẫn có lý trí, không giống
như Thái âm hóa Lộc quá thiên nạng về tình cảm.
Nữ mệnh Thái âm hóa Quyền, chủ về có "thuật" chế ngự chồng, tuy chế
ngự chồng, nhưng người ngoài khác không nhận thấy đó là chế ngự chồng,
mà vẫn chỉ thấy họ là người phụ nữ hiền thục. Nữ mệnh mà cung Phúc đức
là Thái âm hóa Quyền thì có tính chất khác, đó là tình cảm dành cho
chồng thường kém mặn nồng (lạnh nhạt), khác với Thái âm hóa Quyền ở cung
Mệnh có tình cảm vợ chồng tốt đẹp hơn.
Tinh hệ "Thiên đồng Thái âm" đồng độ thủ Mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ,
mà Thái âm hóa Quyền hội với "Thiên cơ Thiên lương" cư Quan mà Thiên cơ
hóa Kị, và mượn "Thái dương Cự môn" nhập cung Tài để hội hợp có Thái
dương hóa Khoa. Cung Mệnh gặp Kình dương Đà la, hoặc đồng độ với Kình
dương. Nhóm tinh hệ này, Thái âm hóa Quyền có Thái dương hóa Khoa hội
chiếu, thông thường đều có biểu hiện tốt lành. Cung Quan Thiên cơ hóa
Kị, chủ về sự nghiệp có nhiều biến động thay đổi, dù ở cùng một nơi làm
việc cũng chủ về liên tiếp bị điều động sang nhiều cương vị công tác
khác nhau. Hơn nữa trong nhiều tình huống, mệnh tạo sẽ không chuyên một
nghề, cũng chính vì bị thay đổi quá nhiều lần, nên dù có khéo thay đổi
thì thu nhập thực tế cũng không nhiều. Chỉ trong tình hình có các sao
Phụ diệu, Tá diệu hội hợp có tác động tích cực thì sự nghiệp mới hơi ổn
định, thu nhập cũng khá hơn, những vẫn thuộc tính chất "danh lớn hơn
lợi". Ở lưu niên hay đại hạn gặp nhóm tinh hệ này, thường thường chuyển
biến thành vận trình có tính sáng tạo. Có lúc còn tốt hơn so với gặp
nhóm tinh hệ này ở nguyên cục.
Tinh hệ "Thái dương Thái âm" đồng độ thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc
Mùi, mà Thái âm hóa Quyền còn Thái dương hóa Khoa, tương hội Thiên lương
độc tọa cư Quan, và mượn "Thiên cơ Cự môn" nhập cung Tài để hội hợp, mà
thiên cơ hóa Kị. Trường hợp ở cung Sửu thì "Thái dương Thái âm" có thể
gặp Lộc tồn. Nhật Nguyệt đồng độ với đã có ý nghĩa "chợt âm chợt dương",
có ý vị mâu thuẫn, lúc thì tích cực, lúc thì tiêu cực. Thái âm hóa
Quyền làm tăng thu hoạch, Thái dương hóa Khoa làm tăng sự phát tán, hai
tính chất này dễ gây ra xung đột mâu thuẫn về tâm trạng. Do cung Quan là
Thiên lương, vì vậy cũng dễ xuất hiện biến động thay đổi và bị quấy
nhiễu, gây khó khăn về phương diện sự nghiệp. Cung Tài là Thiên cơ hóa
Kị đồng độ với Cự môn, chủ về lao tâm tổn thần cực độ, cho dù ở đại hạn
hay lưu niên cũng thường có hiện tượng đồng dạng.
Tinh hệ "Thiên cơ Thái âm" đồng độ thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân,
mà Thiên cơ hóa Kị, Thái âm hóa Quyền, gặp Đà La, các sao hội hợp là
Thiên lương độc tọa cư Quan và Thiên đồng độc tọa cư Tài. Do hai sao Hóa
của Cơ Âm có tính chất xung đột nhau, Thái âm hóa Quyền chủ về ổn định,
Thiên cơ hóa Kị lại chủ về biến thiên, do vậy thường diễn hóa thành bất
ổn trong công việc bình thường, thích đi đường tắc để tìm sự thay đổi,
nhất là dễ theo đuổi hư danh, làm ảnh hưởng đến sự thành tựu của bản
thân. Tinh hệ này còn bất lợi về tình cảm, nhất là nữ mệnh, tuy giỏi
"chế ngự" chồng, nhưng tình cảm vợ chồng lại rất ngăn cách. Có điều,
người ngoài lại vẫn cứ tưởng hai vợ chồng rất ân ái, tính chất này càng
nặng nếu "Thiên cơ Thái âm" ở cung Thân. Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp
tổ hợp tinh hệ này, thường thường là mất cơ hội thay đổi.
Thái âm độc tọa thủ Mệnh hóa Quyền ở hai cung Mão hoặc Dậu (ở Dậu thì
Thái âm có thể hội Lộc tồn ở cung Tị), Thiên đồng ở đối cung, có Thái
dương hóa Khoa cư Tài và Thiên lương độc tọa cư Quan. Thái dương và Thái
âm ở riêng hai cung, sự xung đột ít hơn, do đó tính chất không ổn định
cũng ít hơn. Nhưng lại dễ biến thành an phận trong hiện trạng, kế hoạch
của bản thân không thông suốt, nên ảnh hưởng đến sự thành tựu. Muốn luận
đoán thực tế mệnh cách là cao hay thấp, cần phải xem xét kỹ các đại hạn
mà định, từ đó có thể nắm được "tiên cơ" để tiến hành phép "tìm cát
tránh hung". Thông thường tinh hệ này bất lợi về tình cảm và hôn nhân,
thường có khuynh hướng tái hôn. Người vợ nguyên phối dễ bị tình trạng
tính cách không hợp nhau. Kết hôn muộn cũng là phép "tìm cát tránh hung"
nên tính đến. Ở đại hạn hay lưu niên mà gặp tinh hệ này, nên nắm chắc
cơ hội phát triển.
Thái âm độc tọa thủ Mệnh hóa Quyền ở hai cung Thìn hoặc Tuất, có Thái
dương hóa Khoa ở đối cung, gặp Kình Đà, hoặc có Đà La hội chiếu, hội
hợp với "Thiên đồng thiên lương" cư Quan và Thiên cơ hóa Kị cư Tài. Thái
âm ở hai cung độ này là rơi vào "thiên la địa võng", còn có bản chất
không điều hòa với Thái dương, gây ra ý vị xung đột, hơi giống tình
trạng hai sao này đồng cung ở Sửu Mùi, chỉ khác nhau là không xung đột
trực tiếp. Vì vậy người Thái âm hóa Quyền ở hai cung Sửu hoặc Mùi có thể
bỗng nhiên lập ra một kế hoạch, rồi cũng bỗng nhiên hủy bỏ kế hoạch đó.
Nhưng ở hai cung Thìn hoặc Tuất, thì lại hay trì hoãn, kéo dài, không
thực hiện ngay kế hoạch, mà cũng không hủy bỏ kế hoạch. Trì hoãn ở đây
còn mang hàm nghĩa "đầu voi đuôi chuột". Thêm vào đó cung Tài là Thiên
cơ hóa Kị, chủ về có được đồng tiền thì rất hao tâm tổn lực, khác với
Thái âm hóa Quyền ở hai cung Sửu hoặc Mùi. "Thiên đồng Thiên lương" ở
cung Quan chủ về phải rất vất vả về ăn nói, thuyết phục, giải trình. Đây
là đặc điểm của Thái âm hóa Quyền ở "Thiên la Địa võng". Trong vận hạn
mà gặp tinh hệ này, thì không có bản chất như đã thuật ở trên, cần phải
xét kỹ các sao Phụ diệu, Tá diệu, Sát tinh, Hóa diệu, hội hợp thực tế để
định cát - hung.
Thái âm hóa Quyền thủ Mệnh, độc tọa ở hai cung Tị hoặc Hợi, ắt sẽ gặp
Lộc tồn và đối nhau với Thiên cơ hóa Kị. Mượn "Thiên đồng Cự môn" nhập
cung Tài để hội hợp, cùng hội hợp "Thái dương Thiên lương" ở cung Quan
mà Thái dương hóa Khoa. Trong hai cung, Thái âm ở cung Hợi tốt hơn nhiều
so với ở cung Tị. Có điều bất kể là cung Tị hay cung Hợi, đều là cách
"Lộc gặp Thái âm", chủ về gặp nhiều rắc rối về tình cảm, nhưng giỏi quản
lý tài chính. Sau khi sự nghiệp ổn định thì tình cảm và sự nghiệp lại
đều không ổn định, nhưng nguồn tiền tài lại cực kỳ thịnh vượng. Sự
nghiệp không ổn định ở đây cũng chưa hẳn là khuyết điểm, bởi vì khi Thái
âm hóa Quyền thì chủ động tìm sự thay đổi, thường có thể phát triển tốt
hơn. Ở đại hạn hay lưu niên cũng có ý vị thay đổi theo hướng tốt.
16)- Tham Lang - can Kỷ hóa Quyền
Ý nghĩa cơ bản của Tham Lang hóa Quyền là làm tăng dục vọng của nó,
bất kể là ham muốn vật chất hay ham muốn dục tình đều như vậy.
Trên đời, không thể không làm gì mà có được điều mình muốn. Do đó
Tham lang hóa Quyền luôn có ý thức, cần phải cạnh tranh ở từng lĩnh vực
một. Hơn nữa, có thể còn có biểu hiện không từ một thủ đoạn nào, đương
nhiên sẽ làm tăng khổ lụy cho thân tâm.
Tham lang có thiên hướng trong "giao tế thù tạc", sau khi hóa Quyền
thì biến thành ưa lấy "giao tế thù tạc" làm thủ đoạn để tiến hành cạnh
tranh, môi trường giao tế thù tạc lại không thể tránh được tình cảnh
"phong hoa tuyết nguyệt", do bản thân Tham lang cũng nặng về dục tình,
nên dễ xảy ra sự cố.
Nữ mệnh Tham lang hóa Quyền, nếu thiếu tu thân dưỡng mệnh, sẽ dễ hy
sinh thân xác để theo đuổi mục đích. Nếu có các sao Phụ diệu, Tá diệu
hội hợp, mà cung Phúc đức không có các sao đào hoa, thì phần nhiều sẽ
dốc toàn lực để theo đuổi sự nghiệp, càng gặp phải cạnh tranh càng tăng
thêm sức mạnh, tới mức độ có thể quên cả chuyện gia đình vì không còn
thời gian để chăm lo tới. Vì vậy, cung Điền trạch, cung Phu thê, và cung
Tử tức không nên gặp Thiên cơ hóa Kị, cung nào gặp Thiên cơ hóa Kị sẽ
là phương diện biểu hiện những khiếm khuyết trong cuộc đời. Nam mệnh tuy
cũng có cùng một tính chất, nhưng do hoàn cảnh xã hội, biểu hiện cụ thể
thường được hòa hoãn hơn.
Tham lang hóa Quyền đồng độ với Hỏa tinh Linh tinh, chủ về phát đột
ngột, thường chỉ phát đột ngột về sự nghiệp mà không chủ về phát tài.
Còn có nguy cơ phát lên một cách nhanh chóng và suy sụp cũng rất nhanh
chóng. Nhất là đối với người làm việc trong chính giới cần phải xử sự
cẩn thận, rất dễ thân bại danh liệt.
Tham lang thủ Mệnh hóa quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ, có Phá quân và
Thất sát hội hợp, đối cung là Tử vi độc tọa, Tham lang còn được đồng độ
với Lộc tồn hoặc được Lộc tồn chiếu xạ. Tham lang hóa Quyền ở cung Tý,
thì ham muốn dục tình nặng hơn ham muốn vật chất, ở cung Ngọ thì ham
muốn vật chất nặng hơn ham muốn dục tình. Do hóa Quyền mà còn gặp Lộc
tồn, nên làm mạnh thêm tính chất theo đuổi dục vọng, vì vậy chỉ thích
hợp làm ăn kinh doanh một cách độc lập, không nên hợp tác với người
khác, càng không nên chủ về làm việc cho người khác. Tham lang hóa Quyền
rất kị đồng độ với Văn khúc hóa Kị, tuy xử lý rất ổn thỏa mà kết quả
lại mất công vô ích, hao tổn tinh thần và tiền tài một cách uổng phí,
mục tiêu theo đuổi không được như ý nguyện. Nếu cung Phúc đức hoặc cung
Phu thê gặp các sao đào hoa, đồng thời còn gặp các Sát tinh, Hình tinh,
Địa không, Địa kiếp, thì sẽ nhuyễn hóa thành cuộc đời bị lầm lẫn vì
tình, tiền bạc cũng vì vậy mà phá tán.
Tham lang thủ Mệnh hóa Quyền ở hai cung Sửu hoặc Mùi, ắt sẽ có Vũ
khúc hóa Lộc đồng độ, xin tham khảo ở đoạn "Vũ khúc hóa Lộc".
Tham lang độc tọa thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, đối nhau với
Liêm trinh, hội hợp với Thất sát độc tọa cư Quan và Phá quân độc tọa cư
Tài. Tham lang ở cung Dần còn được hội Lộc tồn. Đặc điểm của nhóm tinh
hệ này là cung Phu thê có sao Lộc quá nặng, "Vũ khúc Thiên phủ" mà Vũ
khúc hóa Lộc lại đồng thời còn gặp Lộc tồn, nên cuộc đời thường được
biểu trưng ở người phối ngẫu. Nam mệnh Tham lang hóa Quyền tuy có sự
nghiệp của riêng mình, nhưng ý vị "vợ đoạt quyền chồng" quá nặng. Lúc
cung Thê đồng thời gặp sao Văn, tuy có khuynh hướng được tiền bạc của
vợ, nhưng vẫn khó tránh bị vợ lấn át. Nữ mệnh Tham lang hóa Quyền chủ về
dễ bị người giầu đã có vợ theo đuổi, thường vì vậy mà vận mệnh cuộc đời
thay đổi.
Tinh hệ "Tử vi Tham lang" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Tham
lang hóa Quyền, hội "Vũ khúc Phá quân" cư Tài mà Vũ khúc hóa Lộc, và hội
"Liêm trinh Thất sát" cư Quan, lại gặp Kình dương Đà la, hoặc đồng độ
với Kình dương. Đây là nhóm tinh hệ có ham muốn vật chất rất mạnh mẽ. Do
cung Tài là "Vũ khúc Phá quân" mà Vũ khúc hóa Lộc, nên tài khí không
yếu, nhưng thường có biểu hiện lãng phí và thích trang điểm bề ngoài,
phấn son lòe loẹt, áo quân bảnh bao, mà nội tâm lại "trống rỗng". Tinh
hệ Tử Tham đồng độ mà Tham lang hóa Quyền, còn là biểu trưng của tính
thích dùng thủ đoạn, không cần làm việc trong chính giới, dù hoạt động
trong lĩnh vực thương nghiệp cũng có khuynh hướng này. Nếu có Văn khúc
hóa Kị đồng độ hoặc vậy chiếu, thì vì nguyên nhân lộng quyền thủ đoạn,
nên bản thân phải chịu cảnh thất bại.
Tham lang độc tọa thủ Mệnh hóa Quyền ở hai cung Thìn hoặc Tuất, đối
cung là Vũ khúc hóa Lộc, hội Thất sát độc tọa cư Quan, và hội Phá quân
độc tọa cư Tài. Do sức mạnh của "Quyền Lộc tượng hội", khiến cho Tham
lang ở "thiên la địa võng" có thể phá được cảnh khốn khó, đột nhiên có
biểu hiện vượt bậc. Có thêm Hỏa tinh hoặc Linh tinh đồng độ, thì càng
chủ về phát lên một cách nhanh chóng. Cũng chính vì vậy, mệnh tạo cần
phải lưu ý đến vận thế nào thì có thể sụp đổ, để tìm cách "tìm cát tránh
hung". Mỗi một vận hạn, cần phải lưu ý đến cát - hung của cung Phúc
đức. Cung Phúc đức của nguyên cục là "Liêm trinh Thiên tướng" đối nhau
với Phá quân, về kết cấu tinh hệ là đã có thiếu xót. Nếu cung Phúc đức
của đại hạn hoặc lưu niên có các Sát tinh, Kị tinh, Hình tinh quấy
nhiễu, gây khó khăn, thì đây là điềm dẫn đến suy sụp một cách nhanh
chóng, mà sự cố suy sụp thì nguyên nhân thường do tình cảm gây ra.
Tinh hệ "Liên trinh Tham lang" thủ Mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, mà
Tham lang hóa Quyền, đồng thời hội "Vũ khúc Thất sát" mà Vũ khúc hóa Lộc
ở cung Quan, và hội "Tử vi Phá quân" ở cung Tài bạch. Nhóm tinh hệ này
có tính chất biến hóa thay đổi cực kỳ lớn, do có Kình dương Đà la hội
hợp, hoặc có Đà La đồng cung. Nếu gặp thêm Địa không Địa kiếp, Thiên
hình, Đại hao, Hóa Kị, sẽ dễ vì tham ô mà dẫn đến tai họa lao ngục. Nếu
gặp các sao Văn và các sao đào hoa, là biểu trưng cho cho nghệ thuật,
giải trí, vui chơi, tạo mẫu thiết kế, thì Tham lang hóa Quyền có thể làm
tăng mức độ mỹ quan. Đây chỉ cử ra những ví dụ có tính cực đoan, ở đại
hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ có kết cấu theo dạng này, sẽ chủ về đột
nhiên xuất hiện cơ hội chuyển biến theo hướng tốt. Nhưng nếu có Văn
khúc hóa Kị cùng đồng độ với cung Mệnh của đại hạn hoặc lưu niên, thì
nên đề phòng bị lừa, cũng chủ về vì sắc mà chuốc họa.
17- Thái Dương - can Tân hóa Quyền
Thái Dương hóa Quyền chủ về tăng năng lực sáng tạo và tài lãnh đạo,
nhưng chỉ chủ về nâng cao địa vị, mà không chủ về chuyển biến có tính
đột ngột về tài lộc, bởi vì tài lộc chỉ tăng theo địa vị.
Vấn đề "miếu vượng lạc hãm" có ảnh hưởng khá lớn đến Thái dương hóa
Quyền. Thái dương ở cung lạc hãm, thường thường có chức mà không có thực
quyền. Nếu cực lực tranh thủ quyền thế, không biết tiến thoái, thì dễ
vì vậy mà dẫn đến thất bại.
Thái dương thủ Mệnh hóa Quyền thường thường là biểu trưng cho tính
độc đoán. Cho nên rất kị gặp Văn xương hóa Kị đồng độ, thường vì xử sự
chủ quan mà gây ra tổn thất. Do người Thái dương thủ Mệnh tự tin một
cách quá đáng, nên tổn thất có thể theo thời gian càng lúc càng lớn.
Người có Thái dương thủ Mệnh hóa Quyền, thì cần phải đồng thời quan
sát cung Huynh đệ và cung Nô bộc để xem xét mối quan hệ với đồng sự và
người dưới quyền. Đây là phương diện có ảnh hưởng khá lớn đối với đời
người.
Lúc Thái dương hóa Quyền, có Cự môn hóa Lộc hội hợp, sẽ chủ về được
người ngoại quốc (hay người ở phương xa) tin cậy và đề bạt, cũng chủ về
nhờ tài ăn nói để kiếm tiền. Nếu có các sao hiển hách hội hợp đồng thời
với các sao Sát Kị Hình, thì vẫn nên đề phòng đột nhiên xảy ra phá tán
thất bại.
Nữ mệnh Thái dương thủ Mệnh hóa Quyền, nếu có Văn xương hóa Kị đồng độ, chủ về lấy chồng không có nghi lễ chính thức.
Thái dương độc tọa thủ Mệnh hóa Quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối
cung với Thiên lương. Tam phương hội Cự môn hóa Lộc cư Quan, và mượn
"Thiên cơ Thái âm" nhập cung Tài.
Nhóm tinh hệ này ở cung Ngọ đẹp hơn, nhưng cần phải chú ý không được
phô trương thanh thế quá đáng, nếu không sẽ dễ khiến cho người ta nhận
thấy sự trống rỗng của bản thân. Nếu có hành động thiết thực, chuyên chú
trong một phạm vi nhất định (ví dụ đang công tác về pháp luật, thì
không được đổi thành làm việc trong chính giới), sẽ dễ được người ta
biết đến danh tiếng hơn, vì vậy đời người cũng không bị quá vất vả.
Thái dương hóa Quyền ở cung Tý dễ trở thành "hữu hanh vô thực". Nếu
có Văn khúc hóa Khoa đồng độ, hoặc ở đối cung thì thích hợp có một nghề,
chỉ cần phát triển một cách thiết thực, thì thanh thế tuy không hiển
hách, nhưng vẫn có thể thăng tiến về sự nghiệp và tiền bạc.
Ở đại hạn và lưu niên mà gặp tổ hợp tinh hệ này, là điềm tượng người
ngoại quốc hay người ở phương xa đề bạt, cũng chủ về địa vị thăng tiến.
Tinh hệ "Thái âm Thái dương" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà
Thái dương hóa Quyền, tam phương hội Thiên lương độc tọa cư Quan, mượn
"Thiên cơ Cự môn" nhập cung Tài để hội hợp, mà Cự môn đồng thời hóa Lộc,
và còn gặp Lộc tồn.
Do "Thiên cơ Cự môn" ở cung Phúc đức, lúc Cự môn hóa Lộc, thường có
biểu hiện lời nói dễ nghe, khéo ăn khéo ở, xử sự uyển chuyển, là đặc
trưng của mưu thần và thuyết khách. Vì vậy Thái dương hóa quyền chỉ biểu
trưng cho địa vị (ở cung Sửu thì càng như vậy), tích cực làm việc sẽ có
địa vị cao, nhưng không được tranh thủ địa vị lãnh đạo thực tế, nếu
không ắt sẽ vì vậy mà sinh phá sản, thất bại.
Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tình hệ này, sẽ chủ về địa vị được thăng chuyển, không chủ về sáng lập sự nghiệp.
Tinh hệ "Thái dương Cự môn" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà
Thái dương hóa Quyền ắt Cự môn sẽ đồng thời hóa Lộc, tham khảo ở đoạn Cự
môn hóa Lộc.
Tinh hệ "Thái dương Thiên lương" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà
Thái dương hóa Quyền ắt sẽ có Lộc tồn hội hợp, tam phương có Thái âm
độc tọa cư Tài, và mượn "Thiên đồng Cự môn" nhập cung Quan mà Cự môn hóa
Lộc.
Nhóm tinh hệ này rất ưa ham muốn về quyền lộc, quyền lộc rất nặng,
nên thường thường ở địa vị lãnh đạo có tiếng thanh cao (ở cung Mão thì
càng tốt). Nói "có tiếng thanh cao" là bao gồm lãnh vực học thuật, hoặc
quan thanh liêm. Cần phải chú ý kết cấu này, Tài bạch sẽ tăng theo địa
vị, khi địa vị tăng cao thì cần phải có cống hiến thực tế, từ đó sẽ xác
định được phương hướng phát triển của đời người. Đây cũng là đạo "tìm
cát tránh hung" vậy.
Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp kết cấu tinh hệ này, thì nên chọn sách
lược tạo dựng uy tín (bao gồm thương hiệu và tín nhiệm) là tốt nhất.
Thái dương hóa Quyền độc tọa thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, đối
nhau với Thái âm, tam phương hội có Cự môn hóa Lộc độc tọa ở cung Tài,
và mượn "Thiên đồng Thiên lương" nhập cung Quan để hội cung, cung Mệnh
còn đồng thời gặp Kình Đà, hoặc đồng độ với Kình dương.
Thái dương hóa Quyền ở hai cung độ này, tuy có năng lực đột phá
"Thiên la Địa võng", nhưng lại thường vì vậy mà hy sinh hạnh phúc hôn
nhân. Thái dương và Thái âm đối nhau, cũng ví như bình đẳng trong hôn
nhân, nhưng một khi Thái dương hóa Quyền thì lập tức xảy ra xung đột.
Nhất là nữ mệnh, cần lưu tâm ý vị này.
Thái dương hóa Quyền ở cung Thìn có nhiều "triêu khí" (khí ban ngày),
nhân sinh quan khá cởi mở, tính tích cực cao, đồng thời cũng dễ thích
ứng với xu thế phát triển của xã hội. Thái dương hóa Quyền ở cung Tuất,
lại có nhiều "mộ khí" (khí ban đêm), biểu hiện tính chủ quan cực nặng,
rất khó thích ứng theo sự chuyển biến của hoàn cảnh, cho nên lúc vận hạn
không cát tường thì hay tự mình sinh ra cảm giác "không gặp thời", dễ
biến thành tiêu cực.
Ở đại hạn hay lưu niên mà gặp kết cấu sao kiểu này, trong xã hội hiện
đại, thì nên mượn lực của người ở nơi xa (hay người ngoại quốc), nhờ vả
mong họ ủng hộ giúp đỡ để tiến thủ. Nếu ở trong giới học thuật thì nên
phát biểu chính kiến của mình, hay tạo cơ hội để diễn giảng để nâng cao
địa vị.
Thái dương hóa Quyền độc tọa thủ Mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, đối
cung với Cự môn độc tọa hóa Lộc, tam phương hội cung có Thiên lương độc
tọa ở cung Tài và Thái âm độc tọa ở cung Quan. Ở cung Tị còn gặp Lộc
tồn, vì vậy ưu hơn ở cung Hợi là Thái dương lạc hãm.
Thái dương ở cung Tị mà hóa Quyền, chủ về có tài lãnh đạo rất mạnh,
đồng thời mệnh lệnh ban phát ra cũng khiến cho mọi người vui vẻ tuân thủ
nghe theo. Thái dương ở cung Hợi thì chỉ nên lợi dụng sức mạnh của
Thiên Lương, lui về phòng thủ, hoặc bảo tồn giữ nguyên cục diện hiện có,
không nên chủ động mở rộng, cũng không nên chủ động đứng đầu chịu trách
nhiệm thực thi sự việc. Người kinh doanh làm ăn nên chú ý tạo dựng
thương hiệu, người trong giới học thuật hoặc giới chuyên nghiệp thì nên
chú ý cống hiến trong lãnh vực của mình. Ở đại hạn hay lưu niên cũng có
cùng một ý vị như vậy.
17- Vũ Khúc - can Canh hóa Quyền
Vũ Khúc là sao tiền tài, sau khi hóa Quyền sẽ làm tăng sự hiển hách của
thanh thế. Do Vũ Khúc chủ về hành động, tức là có biểu hiện cụ thể, nên
sau khi hóa Quyền càng chủ về hành động quả cảm và quyết đoán.
Nhưng đồng thời Vũ khúc còn có biểu hiện bạc tình, nên sau khi hóa Quyền
sẽ chủ về không từ một thủ đoạn nào. Khác với thủ đoạn của Tham Lang
hóa Quyền, người Vũ khúc hóa Quyền về căn bản sẽ không cần biết phản ứng
của người khác sẽ như thế nào, muốn làm thì làm, do đó không có thâm ý.
Ở xã hội hiện đại, tính chất này thường thích hợp với người trong giới
kinh doanh, có thể phát huy sức quyết đoán, mà ít nhiều thì cũng có
người đố kị.
Do Vũ khúc mang theo tính "cô độc và hình khắc", nên nữ mệnh không ưa
hóa Quyền, dễ gặp trở ngại về hôn nhân, hoặc không có duyên với con cái,
biểu trưng cho mẫu người phụ nữ có sự nghiệp.
Tinh hệ "Vũ khúc Thiên phủ" thủ Mệnh ở hai cung cung Tý hoặc Ngọ, mà
Vũ khúc hóa Quyền còn Thiên phủ hóa Khoa, ở cung Tý còn có Lộc tồn đồng
cung, tam phương hội cung có Liêm trinh độc tọa cư Tài, "Tử vi Thiên
tướng" cư Quan, đối cung là Thất sát độc tọa.
Vũ khúc ở Tý hoặc Ngọ, đây là hai cung độ khá đẹp khi Vũ khúc hóa Quyền,
biểu trưng cho tài khí rất vượng, có năng lực khiếm tiền, mà bản thân
còn có thể mượn tiền để vận dụng. Khuyết điểm của nó là Thiên đồng hóa
Kị ở cung Huynh đệ, vì vậy thiếu trợ thủ đắc lực. Lúc giao cho trợ thủ
sự lý việc, mệnh tạo thường không vừa ý, do đó trở thành không có người
trợ giúp để giảm sự vất vả của bản thân.
Người gặp tinh hệ này, nên làm việc ở công ty lớn, tập đoàn lớn, thì
danh dự, địa vị và quyền lực cùng thăng tiến, dễ được cấp trên trọng
dụng.
Nữ mệnh bất lợi về hôn nhân, quan hệ với chồng dễ biến thành "ngó đứt mà
tơ vương", đồng thời còn dễ được người đã có gia đinh theo đuổi.
Tinh hệ "Vũ khúc Tham lang" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Vũ khúc
hóa Quyền, ắt sẽ hội hợp với Kình dương, Đà la, hoặc đồng độ với Đà La,
tam phương hội cung "Liêm trinh Phá quân" cư Tài, và hội "Tử vi Thất
sát" cư Quan.
Vũ khúc hóa Quyền đồng độ với Tham lang, chủ về làm tăng dục vọng về
tiền tài. Ở đây không chỉ nói về kiếm tiền, mà còn nói về dục vọng chi
phối tiền bạc. Cho nên nắm quyền tài chính là nguyện vọng lớn nhất của
người có kết cấu tinh hệ Vũ Tham thủ Mệnh, và đây cũng là thành tựu lớn
nhất của họ.
Trải qua cạnh tranh và nỗ lực (bao gồm cả thủ đoạn), họ có thể nắm quyền
tài chính, nhờ vào đó mà dần dần cải biến sự nghiệp của bản thân. Có
lúc còn mượn sự trợ giúp của quyền lực tài chính để thay đổi chức nghiệp
của mình, tức là lấy tiền của người khác để làm bàn đạp tiến thân.
Nữ mệnh nếu không có nghề nghiệp, thì "bà quản gia" được coi là "chức nghiệp".
Đại hạn hoặc lưu niên gặp tinh hệ này, cũng là điềm tiến thủ, chủ về nhờ tranh chấp mà tạo ra chuyển biến.
Tinh hệ "Vũ khúc Thiên tướng" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Vũ
khúc hóa Quyền, có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, đối nhau với Phá
quân, tam phương hội cung có "Liêm trinh Thiên phủ" cư Tài mà Thiên phủ
hóa Khoa, và hội hợp Tử vi độc tọa cư Quan.
Nhóm tinh hệ này xem ra có vẻ như toàn mỹ, "Lộc Quyền Khoa" hội hợp,
thanh thế hiển hách. Nhưng cần chú ý "Vũ khúc Thiên tướng" luôn luôn bị
Thiên đồng hóa Kị và Thiên Lương giáp cung. Ở cung Thân còn bị thêm Kình
dương và Đà la giáp cung, do đó cần phải nhẫn nhịn để cầu toàn, không
tốt bằng Vũ Tướng ở cung Dần.
Nói "nhẫn nhịn để cầu toàn", có nghĩa là cần phải tình nguyện ở vị trí
thứ hai, còn phải tránh để xảy ra tranh chấp thị phi với đồng sự. Đến
đại hạn hoặc lưu niên có các sao Sát - Kị - Hình nặng, thì lại cần phải
lưu ý đạo "tìm cát tránh hung".
Nữ mệnh tuy có sự nghiệp riêng, nhưng phần nhiều cũng chủ về làm nhị phòng, kế thất, nếu không sẽ dễ đổ vỡ.
Đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, là điềm hợp tác với người
khác để kiếm tiền, cũng chủ về xảy ra chuyển biến theo hướng có lợi.
Tinh hệ "Vũ khúc Thất sát" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Vũ khúc
hóa Quyền, đồng độ với Kình dương, hoặc hội hợp với Kình dương, Đà la,
đối cung là Thiên phủ đồng thời hóa Khoa, tam phương hội "Tử vi Phá
quân" cư Quan và hội "Liêm trinh Tham lang" cư Tài.
Nhóm tinh hệ này nữ mệnh bất lợi về hôn nhân, cuộc đời gặp nhiều rắc rối
về tình cảm, sau trung niên phần nhiều cảm thấy cuộc đời là hư ảo, buồn
rầu, dễ đem lòng yêu thương người đã có gia thất mà không thể kết hợp,
do đó càng có nhiều nỗi đau thầm kín, thế là phần nhiều đều dốc tâm vào
sự nghiệp.
Nói về sự nghiệp thì đây là kết cấu có quyền lực quá mạnh mẽ, thường có
thể phát triển thành lộng quyền hoặc lạm quyền, người dưới quyền cũng vì
vậy mà li tán.
Có một đặc điểm khá rõ rệt, đó là phải nhờ cải biến sự nghiệp thì tài
khí mới được tăng cao, ở đại hạn hay lưu niên cũng có ý vị này.
Vũ khúc độc tọa thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất (ở cung Thìn còn hội
Lộc tồn), Tham lang độc tọa ở đối cung, tam phương có "Tử vi Thiên phủ"
cư Quan mà Thiên phủ hóa Khoa, và "Liên trinh Thiên tướng" cư Tài.
Sắc thái đặc biệt của nhóm tinh hệ này là sau khi trải qua gian nan, tạo
dựng dược uy tín và danh tiếng, thì mới có phát triển mang tính đột
phá, nhờ đó bước vào vận tốt của cuộc đời. Nếu đối cung gặp "Hỏa Tham
cách" hay "Linh Tham cách", thì càng phát triển một cách đột ngột. Ở đại
hạn hay lưu niên mà gặp tinh hệ này cũng chủ về phát đột ngột. Nữ mệnh
chủ về lấy chồng lớn tuổi, và kết hôn muộn, nếu không sẽ dễ sinh ly.
Tinh hệ "Vũ khúc Phá quân" thủ Mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, mà Vũ khúc
hóa Quyền, có Kình dương hoặc Đà là hội chiếu, đối cung là Thiên tướng,
tam phương hội có "Tử vi Tham lang" cư Quan, và "Liêm trinh Thất sát" cư
Tài.
Do có Phá quân đồng độ, nên Vũ khúc hóa Quyền thường vì xảy ra biến động
quá đáng, mà gây ảnh hưởng đến năng lực quản lý tài tính. Vì vậy thích
hợp với những nghề có tính tiêu dùng, hưởng thụ (nhất là ngành ẩm thực,
giải trí, vui chơi). Nếu cung Quan cung Tài gặp Sát tinh, mà cung Mệnh
không có Sát tinh thì thích hợp gia nhập quân đội hay cảnh sát. Nếu cung
Mệnh có Sát tinh thì thích hợp với những nghề có liên quan đến dao kéo.
Ở đại hạn hay lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, thì đây là hạn biến động thay đổi kịch liệt, thường có kết quản tốt.
19- Tử Vi - can Nhâm hóa Quyền
Tử Vi hóa Quyền, giống như Hoàng đế đích thân chủ trì xử lý chính sự,
cho nên thường khiến cho bàng nhân không xử sự nghiêm cẩn là không thể
được. Ở một góc độ khác, đó là khí thế bức người, bầu không khí thường
căng thẳng, nặng nề, dễ tạo thành áp lực trong quan hệ. Đây là một đặc
điểm lớn nhất của Tử vi hóa quyền.
Do có đặc điểm này, nên Tử vi thủ Mệnh hóa Quyền rất vất vả, mà lại
ít có duyên với người, bởi vì khi giao lưu quan hệ mà mọi người ở bên
cạnh sẽ bị áp lực. Bất kể là thượng cấp hay người dưới quyền, đều cảm
thấy không được thoải mái, chỉ có người ngoài cuộc mới có thể tán thưởng
mà thôi. Người có Tử vi thủ Mệnh hóa Quyền thường hay oán trách sao
mình quá vất vả mà chẳng được gì. Nguyên nhân là ở đây !
Hóa Quyền là chủ về quyền lực thực tế, cho nên khi Tử vi hóa Quyền sẽ
gánh vác công việc rất cụ thể, tất nhiên mệnh tạo cũng có đủ năng lực
một mình đảm trách công việc. Nhưng hễ cung Mệnh là Tử vi hóa Quyền, thì
cung Tài bạch ắt sẽ là Vũ khúc hóa Kị, công việc bị ảnh hưởng vì Hóa Kị
nên không thích hợp trong kinh doanh làm ăn, nhất là khi mình tự chủ.
Đây là khuyết điểm lớn nhất của Tử vi hóa Quyền, bởi vì bản thân người
Tử Vi khi hóa Quyền dám làm dám chịu. Trong hoàn cảnh không thể tự chủ,
phải làm việc dưới quyền người khác, thì người Tử vi hóa Quyền lại phải
chịu áp lực một cách miễn cưỡng, tâm lý lao động không nhiệt tình, mà
không thể mang thông minh tài chí của mình ra mưu cầu lợi ích cho bản
thân. Đây cũng là một nguyên nhân gây nên nhiều biến cố, để lại những
hậu quả bất lợi một cách không cần thiết, nhất là trong môi trường giao
lưu thù tạc.
Bản thân Tử Vi vốn đã có sắc thái độc đoán, yêu ghét đều có tính kích
động, sau khi hóa Quyền thì tính dễ bị kích động càng tăng, do đó
thường ảnh hưởng đến tính lãnh đạo của họ. Bởi vì người giỏi phát huy
tài lãnh đạo thì không nên kích động và ương bướng.
Bản thân Tử vi vốn có đặc tính nổi bật nhất là bao dung chịu đựng,
sau khi hóa Quyền thì đặc tính này càng được phát huy, cho nên dễ tha
thứ cho đối phương, khiến người ta nhiều lúc cảm thấy bất ngờ.
Tử Vi độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ, ắt sẽ gặp
Kình dương Đà la, hoặc đồng độ với Kình dương, có Tham Lang độc tọa ở
đối cung, tam phương hội "Liêm trinh Thiên phủ" ở cung Quan mà Thiên phủ
hóa Khoa, và hội "Vũ khúc Thiên tướng" ở cung Tài mà Vũ khúc hóa Kị.
Ngoài những đặc điểm của Tử Vi hóa Quyền, về phương diện sự nghiệp
còn có sắc thái của Thiên Phủ hóa Khoa, đó là rất xem trọng uy tín, ở
một mức độ nhất định nào đó, thì có thể biến thành người bảo thủ, nhờ
vậy mà đã giảm bớt nguy hại do Vũ Khúc hóa Kị ở cung Tài mang lại. Chỉ
có biểu hiện tiêu xài lãng phí.
Tử Vi hóa Quyền ở cung Ngọ còn có đặc điểm bất lợi về hôn nhân, đặc
biệt là đối với nữ mệnh. Đây là vì bị ảnh hưởng bởi Tham Lang ở đối
cung, trở thành cách "Phiếm thủy đào hoa" dễ có tình mà lại không có
duyên, có duyên mà lại không có tình.
Ở lưu niên hay đại hạn mà gặp nhóm tinh hệ này, là biểu trưng cho sự
phát triển quyền lực. Nhưng cần phải chú ý điều độ về mặt tài chính, nếu
không dễ bị túng thiếu.
Tinh hệ "Tử vi Phá Quân" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Tử vi hóa
Quyền (ở cung Mùi còn gặp Lộc tồn), đối cung là Thiên tướng, tam phương
hội cung có "Liên trinh Tham lang" ở cung Quan, và "Vũ khúc Thất sát" ở
cung Tài mà Vũ khúc hóa Kị.
Do ảnh hưởng của Phá Quân đồng độ, nên so với Tử Vi hóa Quyền ở hai cung
Tý hoặc Ngọ, thì Tử vi hóa Quyền ở Sửu hoặc Mùi có tính chất ít thận
trọng hơn. Vì vậy mà do sự cải biến của người này có biên độ quá lớn,
dẫn đến xảy ra khó khăn về mặt tài chính, nhưng họ lại vẫn cố tình chống
đỡ, khiến cho tâm lực vất vả. Đạo "tìm cát tránh hung" chính là đừng
tìm và không thể cầu "thể hiện sắc thái đặc tính của bản thân", khi bộc
lộ sắc thái cá nhân hoặc đặc tính một cách thái quá thì sẽ bất lợi, duy
chỉ có thể làm việc một cách thiết thực, thì mới được bàng nhân quan tâm
ủng hộ và tán thưởng.
Do Tử vi có đặc tính "kích phát", "kích động", nên khi gặp Tử phụ Hữu
bật đồng cung, hoặc Tả Hữu giáp cung, sẽ mang lại ảnh hưởng rất lớn đối
với kết cấu Mệnh cục này.
Ở lưu niên hay đại hạn thông thường có ý vị làm tăng chuyển biến về
quyền lực, nhưng vẫn phải tự lượng sức mình. Nhất là phải chú ý tính
chất của cung Huynh đệ và cung Giao hữu (cung Nô).
Tinh hệ "Tử vi Thiên phủ" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Tử vi
hóa Quyền thì Thiên phủ ắt sẽ hóa Khoa, tam phương hội cung có "Liêm
trinh Thiên tướng" ở cung Quan, và Vũ khúc độc tọa mà Hóa Kị ở cung Tài.
Đối cung là Thất sát, cung Mệnh còn gặp Kình dương và Đà la.
Nhóm tinh hệ kết cấu này, tuy có ảnh hưởng của Thiên phủ hóa Khoa, nhưng
đối cung là Thất sát, sẽ khiến cho quyền lực của Tử vi khi hóa Quyền
thêm nặng, do đó dễ vì có quyền lực mà hành động một cách bất cẩn, làm
cho sức mạnh của Thiên phủ hóa Khoa không thể phát huy.
Hơn nữa, Tử vi hóa Quyền mà đồng độ với Thiên phủ hóa Khoa, một "công"
một "thủ" có mâu thuẫn quá lớn, cho nên có lúc phản ứng sai lầm, tiến
thoái không hợp thời cơ, nên lại không được toàn mỹ.
Ở lưu niên hay đại hạn mà gặp nhóm tinh hệ này, cũng thường bị tình cảnh
do dự giữa tiến và thoái. Cần phải xem ở vận sau kế tiếp là "cát" hay
"hung", để quyết định nên như thế nào, tiếp tục hành động hay là nên
dừng lại.
Tinh hệ "Tử vi Tham lang" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Tử vi
hóa Quyền ở cung Mão sẽ gặp Lộc tồn, tam phương hội cung có "Vũ khúc Phá
quân" ở cung Tài mà Vũ khúc đồng thời hóa Kị, và "Liêm trinh Thất sát" ở
cung Quan.
Tử Tham gặp Quyền Lộc, chủ về cực lực theo đuổi ham muốn vật chất, cũng
đồng thời theo đuổi ham muốn quyền lực, cho nên dễ khiến nhìn bề ngoài
thì tích cực, nhưng trên thực tế lại cảm thấy trống rỗng. Nhất là tổ hợp
"Vũ khúc Phá quân" hóa Kị, thường sẽ khiến cho lý tưởng của mệnh tạo
không thực hiện được, cuộc sống bị tiền bạc khống chế, nên nội tâm càng
buồn rầu lo lắng. Tuy bề ngoài vẫn duy trì vẻ tôn nghiêm, lạc quan,
nhưng về mặt tinh thần thường luôn không ổn định (rắc rối).
Tinh hệ "Tử vi Thiên tướng" thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, mà Tử vi
hóa Quyền bị Kình Đà hội chiếu, hoặc có Đà La đồng cung, đối cung có
Phá quân, tam phương hội cung có "Vũ khúc Thiên phủ" ở cung Tài, phân ra
một sao hóa Kị một sao hóa Khoa, và Liêm trinh độc tọa cư Quan.
Nhóm tinh hệ này bị "Vũ khúc Thiên phủ" gây ảnh hưởng rất lớn. Trong các
tình huống thông thường, chủ về tính tự tôn cực nặng. Nhưng để giữ tính
tự tôn của bản thân, trên thực tế thường thường lại không cần thiết
phải trả giá quá đắt như vậy.
Gặp nhóm tinh hệ này trên vận trình, phần nhiều lại xảy ra trắc trở đột
ngột. Sức mạnh ở của Tử vi hóa Quyền có thể chịu đựng trắc trở, nhưng
nội tâm lại đau khổ. Vì vậy mệnh tạo càng có biểu hiện cực kỳ xung động,
thường gây ra nhưng biến động thay đổi khiến người ta phải bất ngờ.
Ở đại hạn hoặc lưu niên còn cần lưu ý, trong vận hạn không được sống độc
lập một cách quá đáng, hoặc quá lộ sự sắc xảo, nếu không sẽ xảy ra trắc
trở.
Tinh hệ "Tử vi Thất sát" thủ Mệnh mà Tử vi hóa Quyền ở hai cung Tị hoặc
Hợi, có Lộc tồn đồng độ hoặc vậy chiếu. Tam phương hội hợp có "Liêm
trinh Phá quân" ở cung Quan, và "Vũ khúc Tham lang" có Vũ khúc hóa Kị ở
cung Tài.
"Tử vi Thất sát" vốn đã có ý vị quyền lực, sau khi Tử vi hóa Quyền thì
tính chất quyền lực càng nặng. Nhưng ở cung Tài do Vũ khúc hóa Kị khiến
cho quyền lực bị khống chế, cung Quan lại thường hay đổi ý bất nhất, may
mà đối cung là Thiên di có Thiên phủ hóa Khoa có thể điều hòa.
Do đó có thể biết, nhóm tinh hệ này đầy sắc thái mâu thuẫn, hành động
thuộc Hậu thiên có ảnh hưởng rất lớn đối với mệnh tạo. Nếu có các sao
Cát hội hợp, thì có thể làm những ngành nghề có thể bộc lộ sự sắc sảo để
dễ có cảm giác thỏa mãn. Còn nếu các sao không hợp không cát tường, có
thể phát triển thành "cọp mà ăn thức ăn của mèo" hoặc thậm chí tủ tiền
trống rỗng.
Đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, thường thường là cơ hội
chuyển biến, nhưng không được triển khai cục diện lớn quá.
20- Cự Môn - can Quý hóa Quyền
Cự Môn là sao điều tiếng thị phi, sau khi hóa làm sao Quyền, sẽ khiến
"điều tiếng thị phi" biến thành lời nói có sức thuyết phục. Cho nên Cự
môn hóa Quyền ưu hơn Cự môn hóa Lộc. Hóa Lộc bất quá chỉ làm cho lời
ngon tiếng ngọt, ngôn từ dễ nghe mà thôi. Cự môn không hóa Khoa cũng vì
cái Lý này, bởi vì lời nói biện luận trước hay sau thì cũng như nhau,
chẳng thể tin được.
Cự Môn hóa Quyền thích hợp với những nghề cần đến tài nói chuyện như
luật sư, ngoại giao, giáo dục, bán hàng, chào hàng, đại lý bán lẻ,
.v.v... cũng nên suy tính đến những nghề biểu trưng cho trạng thái xã
hội như người điều khiển trương trình, ca sỹ, diễn viên, .v.v...
Nữ mệnh vốn không ưa Cự Môn, vì dễ xảy ra sóng gió, trắc trở trong tình
cảm. Khi Cự môn hóa Lộc không thể cải thiện được đặc tính này, nhưng sau
khi hóa làm sao Quyền thì lại có thể giảm bớt sóng gió trắc trở, bởi vì
hóa thành sao Quyền có thể tự khống chế tâm trạng của mình.
Cự Môn là "ám tinh", thường có khuynh hướng biểu hiện "cái tôi" (ngã),
nhưng sau khi hóa Quyền thì lối biểu hiện "cái tôi" sẽ dễ khiến cho
người ta chấp nhận hơn. Hoặc có thể nói, dễ làm cho người ta tiếp nhận
sự vẻ vang của mệnh tạo. Do duyên có này, Cự môn hóa Quyền có thể làm
tăng sức ảnh hưởng đối với những người xung quanh và tăng sự ảnh hưởng
địa vị xã hội của người này. Tùy theo mức độ của tầm ảnh hưởng mà thu
vào tài phú nhiều hay ít, địa vị xã hội cũng theo đó mà được nang cao.
Cự môn hóa Quyền hội Thái dương chưa chắc chủ về được người ngoại quốc
(hay người ở phương xa) phù trợ, chỉ chủ về làm tăng mức độ tiếp nhận
của mọi người bề những cái bộc lộ biểu hiện của mệnh tạo. Khác với Thái
dương hóa Quyền hội Cự môn hóa Lộc.
Cự môn độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ, ắt sẽ có Lộc
tồn đồng độ hoặc vây chiếu, đối cung là Thiên cơ, tam phương tương hội
có Thái dương độc tọa ở cung Quan, và mượn "Thiên đồng Thiên lương" để
nhập cung Tài.
Nhóm tinh hệ này đã cấu tạo thành cách "Thạch trung ẩn ngọc", nhất là
khi Cự môn ở cung Tý được Lộc tồn đồng độ, có Thái dương ở cung Vượng
hội hợp. Vì vậy tốt hơn Cự môn ở cung Ngọ. Ở cung Ngọ thường thường chủ
về nên rời xa quê hương, phát phúc ở tha hương. Liên quan đến tính chất
của tinh hệ này, đã thuật nhiều ở các mục nói về "Thạch trung ẩn ngọc
cách", ở đây cần phải nhấn mạnh thêm một lần nữa, phàm là cách "Thạch
trung ẩn ngọc", thì trong đời người không nên ngồi ở vị trí cao.
Lưu niên hay đại hạn mà gặp nhóm tinh hệ này, cũng chủ về có cơ hội để
thể hiện bản thân, mà còn được người ta dễ tiếp nhận, nhưng không được
vì quá thỏa mãn mà dương dương đắc ý.
Tinh hệ "Thiên đồng Cự môn" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Cự môn
hóa Quyền, tam phương hội cung có Thiên cơ độc tọa ở cung Quan, và mượn
"Thái dương Thiên lương" nhập cung Tài để hội hợp. Cung Mệnh ắt sẽ gặp
Kình dương, hoặc có Kình dương Đà là hội chiếu.
Nhóm tinh hệ này, chủ về tay trắng làm nên, phải trải qua gian khổ mới
có thành tựu, mức độ thành công cũng tùy thuộc vào mực độ biểu hiện của
bản thân mệnh tạo. Vì vậy, đang âm thầm lặng lẽ đột nhiên phát lộ ánh
sáng rực rỡ, là đặc điểm của tinh hệ này.
Cần chú ý "Thiên đồng Cự môn" ở cung Sửu, thì cung Huynh đệ là Tham lang
hóa Kị, còn bị Kình Đà giáp cung, dó đó còn chủ sau khi phát vượt lên,
ắt sẽ chuốc lấy đố kị, dẫn đến bất hòa với đồng sự hoặc người hợp tác.
Nữ mệnh gặp nhóm sao này dễ bị người khác đoạt tình, nên cần phải lưu ý đến sinh hoạt hôn nhân.
Tinh hệ "Thái dương Cự môn" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Cự môn
hóa Quyền, tam phương hội cung mượn "Thiên đồng Thái âm" nhập cung mà
Thái âm ắt hóa Khoa ở cung Quan, và mượn "Thiên cơ Thiên lương" nhập
cung Tài, có kèm Lộc tồn đến hội chiếu.
Nhóm kết cấu tinh hệ này đặc biệt lợi về phát huy tài ăn nói. Nữ mệnh
vốn bất lợi về hôn nhân, nhưng nhờ lực của Cự môn hóa Quyền khiến hôn
nhân trở thành tốt đẹp, còn giảm bớt rắc rối về tình cảm, nhưng vẫn chủ
về kết hôn muộn, không nên chọn lầm đối tượng lúc còn quá trẻ.
Nếu nam mệnh cung Phu thê gặp Văn xương Văn Khúc và Lộc tồn, sẽ chủ về
nhờ vợ mà có tiền của, hoặc được nhạc gia nâng đỡ mà phát triển sự
nghiệp.
"Thái dương Cự môn" trong nhóm tinh hệ này, ý nghĩa cơ bản là tài ăn
nói, còn là người ngoại quốc (hay người ở phương xa). Tính chất của tinh
hệ biến hóa rất lớn, nên rất thích hợp công việc ngoại giao, nếu gặp
các sao đào hoa, thì có thể thích hợp với nghệ thuật biểu diễn, gặp các
sao khoa văn thì thích hợp làm việc trong giới quảng bá.
Tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Cự môn
hóa Quyền ắt sẽ gặp Kình dương hoặc Đà la. Tam phương hội hợp mượn "Thái
dương Thái âm" nhập cung Quan mà Thái âm hóa Khoa, và Thiên đồng độc
tọa ở cung Tài.
Nhóm tinh hệ có kết cấu đặc biệt lợi về thăng chức và cạnh tranh. Sau
khi hóa Quyền, thậm chí có thể lấy cách "Dương Lương Xương Lộc" để so
sánh, hoàn toàn thiếu bản chất nghiên cứu thâm trầm, vì vậy cũng không
có ý vị cạnh tranh học thuật.
Cự môn hóa Quyền ở cung độ này, đối với nữ mệnh, cũng có thể khiến cho
hôn nhân trở thành ổn định, nhưng vẫn bất lợi nếu kết hôn sớm.
Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, thường thường nhờ "ám
lực" (lực ngầm) mà chuyển biến theo hướng tốt lành, vì vậy không nên
truy cầu địa vị cao, nếu không sẽ không được lâu dài.
Cự môn độc tọa lạc hãm thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất (Cự môn ở cung
Thìn gặp Lộc tồn), có Thiên đồng ở đối cung, tam phương hội hợp Thái
dương độc tọa ở cung Tài, và mượn "Thiên cơ Thái âm" có Thái âm hóa Khoa
để nhập cung Quan.
Cự môn rất kị ở hai cung Thìn hoặc Tuất, thường thường bản thân vất vả
mà lại ít có người trợ lực. Sau khi hóa Quyền, có thể cải thiện tính
chất lạc hãm ở "thiên la địa võng". Vì vậy sau khi trải qua gian khổ thì
có thành tựu, mà vãn còn cần phải nỗ lực. Nếu chỉ trông chờ cơ hội phát
đột ngột, thì cảnh tốt cũng không được lâu dài.
Điều đáng chú ý là "Thiên cơ Cự môn" đồng độ ở cung Phu Thê mà Thái âm
hóa Khoa, có thể thành cách "Đan trì Quế trì", tức là trong cung gặp Văn
xương Văn khúc, chủ về được nhạc gia nâng đỡ.
Cự môn độc tọa thủ Mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, đối nhau với Thái dương,
tam phương hội hợp Thiên cơ độc tọa ở cung Tài và Thiên đồng độc tọa ở
cung Quan. Cung Mệnh ắt sẽ gặp Kình Đà, hoặc Đà la cùng bay đến.
Kết cấu sao dạng này cũng chủ về phát huy tài ăn nói, nhưng không tốt
bằng Cự Nhật đồng cung. Cự môn hóa Quyền chỉ cải thiện tính chất bất lợi
đối với cha, khiến lúc nhỏ phần nhiều đều có đường đời gập gềnh, có lúc
lại biểu trưng cho sinh ly tử biệt đối với cha, nhưng vẫn được tài sản
của cha nuôi dưỡng.
Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp Cự môn hóa Quyền ở cung Tị hoặc Hợi, thì
không có cát lợi đặc biệt gì, có lúc chỉ là cơ hội biểu hiện bản thân.
21- Vũ Khúc - can Giáp hóa Khoa
Vũ khúc hóa Khoa không chủ về "khoa danh" (có danh tiếng trong khoa cử),
khác với Hóa Khoa của Văn xương và Văn khúc. Khi Vũ khúc hóa Khoa chỉ
chủ về có danh tiếng giới hạn trong một ngành nghề, hoặc trong một phạm
vi nhất định, chưa chắc được đại chúng trong xã hội biết đến.
Cho nên Vũ khúc hóa Khoa không có ý vị được tuyên dương rộng rãi. Hơn
nữa, một khi tuyên dương rộng rãi, sẽ dễ bị ở vào vị trí lúng túng,
gượng gạo, khó xử, như bị người ta đả kích, đố kị, .v.v... Nữ mệnh càng
dễ bị rắc rối về tình cảm, thường bị người đã có gia đình theo đuổi.
Ưu điểm lớn nhất của Vũ khúc hóa Khoa là làm tăng năng lực quyết đoán
theo hướng tốt, chẳng bị rơi vào tình trạng võ đoán hoặc suy nghĩ nông
cạn.
Tinh hệ "Vũ khúc Thiên phủ" thủ Mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ, mà Vũ
khúc hóa Khoa, đối cung là Thất sát, tam phương hội hợp với Liêm trinh
độc tọa hóa Lộc ở cung Tài, và "Tử vi Thiên tướng" ở cung Quan. "Vũ khúc
Thiên phủ" ở cung Ngọ còn gặp Lộc tồn, nên ở cung Ngọ có lợi hơn ở cung
Tý.
Nhóm tinh hệ này rất ưa gặp sao Lộc, được "Khoa Lộc" là kết cấu tinh hệ
tốt lành. Trong các tình hình thông thường, chủ về xử lý công việc thuận
lợi, thích hợp với ngành nghề kinh tế tài chính, dễ được ngân hàng tín
nhiệm, còn có biểu hiện tốt trong nghề nghiệp.
Do Liêm trinh hóa Lộc hội chiếu, nếu gặp các sao đào hoa, cũng chủ về dễ chuốc rắc rối khó xử về tình cảm.
Tinh hệ "Vũ khúc Tham lang" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Vũ khúc
hóa Khoa, đồng thời còn gặp Kình dương Đà la hoặc có Kình dương đồng
độ. Tam phương hội hợp có "Liêm trinh Phá quân" ở cung Tài chia ra một
sao hóa Lộc một sao hóa Quyền, và hội cung Quan có "Tử vi Thất sát" là
kết cấu sao quyền lực.
Tinh hệ có kết cấu sao kiểu này, có Hỏa tinh Linh tinh đồng độ thì mới
phát huy được đặc tính của "Vũ khúc Tham lang" có thể phát đột ngột. Nếu
không thành cách "Hỏa Tham" hay "Linh Tham", thì đây là cách "Lộc Quyền
Khoa hội" chủ về phát vượt lên nhưng không có ý vị phát đột ngột, mà là
phát lâu dài.
Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm sao này, cũng là vận tốt, nhưng nên
tránh bất hòa với thượng cấp và bậc trưởng bối, thường làm cho thượng
cấp đố kị tài năng.
Tinh hệ "Vũ khúc Thiên tướng" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Vũ
khúc hóa Khoa ắt có Lộc tồn hội hợp hoặc vây chiếu, tam phương hội hợp
có "Liêm trinh Thiên phủ" mà Liêm trinh hóa Lộc ở cung Tài, và Tử vi độc
tọa ở cung Quan, đối cung Thiên Di có Phá quân hóa Quyền.
Nhóm sao này cũng là kết cấu "Lộc Khoa Quyền hội cách", do Tử vi ở cung
Quan nên rất dễ ở địa vị lãnh đạo và có danh tiếng, cũng thích hợp tự
mình phát triển kinh doanh. Có điều lúc đồng độ với Lộc tồn, ắt sẽ bị
Kình dương và Đà la giáp cung, do đó không nên phát triển riêng một cách
độc lập quá sớm, nếu không sẽ dễ bị phá tán, thất bại.
Nhóm sao này thường thường cũng thành kết cấu thích hợp làm việc trong
chính giới, lúc đó càn phải gặp các sao Phụ diệu, Tá diệu, nhưng lại
không nên ở địa vị lãnh đạo. Ảnh hưởng của Phá quân hóa Quyền ở đối cung
Thiên Di, chỉ chủ về có thể nắm thực quyền.
Đại hạn hoặc lưu niên rất ưa gặp nhóm tinh hệ này, chủ về bỏ cũ đổi mới, gặp cơ hội tốt.
Tinh hệ "Vũ khúc Thất sát" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Vũ khúc
hóa Khoa tuy sẽ gặp Kình dương Đà la hoặc đồng độ với Kình dương, nhưng
đồng thời cũng sẽ hội với "Tử vi Phá quân" mà Phá quân hóa Quyền ở cung
Quan, và "Liêm trinh Tham lang" mà Liêm trinh hóa Lộc ở cung Tài. Không
những thành kết cấu "Lộc Quyền Hoa hội" tốt lành, mà còn là cách "cương
nhu" phối hợp thích đáng.
Chỉ có một khuyết điểm bất lợi về Cha , chủ về không được "phụ ấm" (cha
che trở), hoặc chủ về hai cha con gần nhau thì ít mà xa nhau thì nhiều,
nhưng cũng chính vì vậy mà "kích phát" năng lực khai sáng sự nghiệp.
Thích hợp với những ngành nghề như kinh tế tài chính, giải trí, vui
chơi, nghệ thuật, .v.v... nhất là những ngành nghề giầu tính cạnh tranh.
Đại hạn hoặc lưu niên gặp nhóm tinh hệ này, sẽ chủ về có tính sáng tạo, càng có cạnh tranh càng có lợi.
Vũ khúc độc tọa thủ Mệnh hóa Khoa ở hai cung Thìn hoặc Tuất, Tham lang ở
đối cung, tam phương hội hợp có "Tử vi Thiên phủ" ở cung Quan, và "Liêm
trinh Thiên tướng" mà Liêm trinh hóa Lộc ở cung Tài, Vũ khúc ở cung
Tuất còn được gặp Lộc tồn.
Nhóm tinh hệ này cũng là kết cấu "Khoa Lộc" tương hội, nhưng trừ phi
thành cách "Hỏa Tham" hay "Linh Tham", nếu không sẽ rất ngại bản thân
"Tử vi Thiên phủ" ở cung Sự nghiệp có mâu thuẫn, cung Tài "Liêm trinh
Thiên tướng" có ý vị bị động, tuy nhờ Vũ khúc hóa Khoa cũng chỉ chủ về
được người ta trọng dụng nhất thời, mà không có trợ lực thực tế.
Nếu Vũ khúc hóa Khoa có Hỏa tinh Linh tinh đồng độ cũng chủ về phát đột
ngột, nhưng không lớn bằng "Hỏa Tham" hay "Linh Tham", mà còn dễ bị phá
tán thất bại.
Tinh hệ "Vũ khúc Phá quân" thủ Mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, có Vũ khúc
hóa Khoa mà Phá quân đồng thời hóa Quyền. Tham khảo ở đoạn thuật "Phá
quân hóa Quyền".
22- Tử Vi - can Ất hóa Khoa
Tử vi rất ưa hóa Khoa, bởi vì đối với Đế tinh, nhiều lúc danh dự còn
quan trọng hơn quyền lực. Sau khi hóa Khoa, Tử vi có thể cải thiện một
số khuyết điểm, như cố chấp, độc đoán, yêu ghét tùy ý, .v.v...
Tử vi sau khi hóa Khoa chủ về tăng danh vọng ở phạm vi khá rộng, còn có
sắc thái công chúng, hơn xa Vũ khúc hóa Khoa chỉ có tính cục bộ.
Chỉ cần không phải là "tại dã cô quân", sức ảnh hưởng của Tử vi hóa Khoa
thường có tính quyền uy, dễ là được người khác tin phục.
Tử vi vốn có đặc tính "lấy tai làm mắt", ưa nghe lời xiểm nịnh, nhưng
sau khi hóa Khoa, có thể phân biệt rõ thị phi, có điều khi xử sự vẫn có
phong cách cá nhân mạnh mẽ.
Tử vi sau khi hóa Khoa, dù không có Xương Khúc hội hợp, cũng chủ về dễ
tiếp thu tri thức, và có thể biểu đạt ý nghĩa ý nghĩa hiểu biết của
mình. Cho nên nó ở trong số "sao Khoa" có tính chất khá thiết thực và
tốt lành.
Tử vi hóa Khoa nếu còn được các sao Phụ diệu, Tá diệu, thì thích hợp làm
việc trong chính giới, cổ nhân gọi là "nho thần", ắt sẽ có địa vị rất
cao. Nếu gặp Sát tinh, thì chỉ có thể biểu hiện trong phạm vi cục bộ.
Nhưng phàm là Tử vi hóa Khoa, thì vất kể là có kết cấu tinh hệ nào, cũng đều dễ chuốc đố kị, chỉ không bị tổn thương mà thôi.
Tử vi độc tọa thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, gặp Kình
dương hoặc Đà la, có Tham lang ở đối cung, tam phương hội cung có "Liêm
trinh Thiên phủ" ở cung Quan, và hội cung Tài với tinh hệ "Vũ khúc Thiên
tướng".
Tử vi độc tọa vốn đã mang ý vị độc lập, chỉ có hóa Khoa, mà không có sao
Cát hóa khác hội chiếu, còn không gặp Lộc tồn, nên chỉ chủ về có năng
lực suy nghĩ độc lập, mà lại còn khéo phát huy phong cách cá nhân. Nói
về cảnh ngộ đời người, dễ được người khác ủng hộ (ở cung Ngọ ưu hơn cung
Tý, vì ngại Thái âm hóa Kị ở cung Tị là cung Giao hữu), nhưng vẫn là tổ
hợp chủ về "danh lớn hơn lợi" chẳng túng thiếu, nhưng cũng không dư
giả.
So đặc tính của hai cung Tý hoặc Ngọ, người ở cung Tý thì "tinh" (chuyên sâu), còn người ở cung Ngọ thì "bác" (uyên bác).
Ở đại hạn hoặc lưu niên thì không có tính chất đã thuật ở trên, nhưng lại thường là điềm tượng có cơ hội thể hiện bản thân.
Tinh hệ "Tử vi Phá quân" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Tử vi hóa
Khoa, đối cung là Thiên tướng, tam phương hội cung có "Vũ khúc Thất sát"
ở cung Tài ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, và hội cung Quan là
tinh hệ "Liêm trinh Tham lang".
Tử vi hóa Khoa của nhóm tinh hệ này chủ yếu làm mạnh thêm thanh thế của
Phá quân, đồng thời còn có ý vị, vì tuy là cầu danh tiếng mà chủ động
thay đổi. Nếu có Cát tinh hội hợp thì vì Danh mà thay đổi, sau khi thay
đổi thì danh tiếng càng lớn, do đó lại cầu thay đổi tiếp. Thế là đương
số không ngừng theo đuổi, không ngừng biến đổi, đời người tuy khó tránh
vất vả, khổ lụy, nhưng bản thân đương số lại cảm thấy vẻ vang và thỏa
mãn.
Nếu trong lúc đang thay đổi, bỗng nhiên họ dừng bước, thì trái lại, sẽ
dễ vì phản ứng sai lầm, tiến thoái không hợp thời cơ mà dẫn đến tổn thất
phá tán, thất bại. Cũng do không ngừng cầu thay đổi, nên quan hệ giao
tế cũng thay đổi luôn, cho nên khi Tử vi hóa Khoa cũng không thể cải
thiện tính chất "vô tình vô nghĩa" của nó.
Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ này cũng chủ về có biểu hiện vẻ vang rực rỡ và thay đổi.
Tinh hệ "Tử vi Thiên phủ" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Tử vi
hóa Khoa, đối cung là Thất sát, tam phương hội cung là Vũ khúc độc tọa ở
cung Tài và "Liêm trinh Thiên tướng" ở cung Quan. "Tam phương tứ chính"
đều gặp Sát tinh.
Tử vi và Thiên phủ vốn có tính mẫu thuẫn, vừa chủ động lại vừa bị động,
vừa tiến công lại vừa phòng thủ. Sau khi Tử vi hóa Khoa thì Tử vi được
tăng thêm sức mạnh, nhờ vậy mà giải quyết được tình trạng mẫu thuẫn của
"Tử vi Thiên phủ". Một khi mẫu thuẫn được giải quyết, xung chiếu Thất
sát, thì tính chất hóa thành quyền lực được phát huy. Cho nên tinh hệ
này khi Tử vi hóa Khoa trở thành có trí tiến thủ, và năng lực quyết đoán
cao được phát huy, đây là điều mà tinh hệ "Tử vi Thiên phủ" vốn không
có.
Như tinh hệ này lại có đặc điểm là ưa lộ sự sắc xảo, luôn muốn khoe tài
năng, vì vậy mà thường bị người ta công kích. Còn cần đặc biệt lưu ý khi
đến đại hạn hoặc lưu niên "Liêm trinh Thiên tướng" đừng cố xuất đầu lộ
diện mà mang họa vào thân.
Nhóm tinh hệ này khi gặp ở đại hạn hoặc lưu niên thì không có bản chất
này (?), chỉ chủ về bộc lộ những biểu hiện cá nhân, mà cần lưu ý không
được nóng nảy.
Tinh hệ "Tử vi Tham lang" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Tử vi hóa
Khoa ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, tam phương hội cung với
"Vũ khúc Phá quân" ở cung Tài, và "Liêm trinh Thất sát" ở cung Quan.
Tinh hệ này vốn có sắc thái không ổn định, nhưng Tử vi hóa Khoa chỉ có
tính chất nhờ thay đổi cải cách mà người ta biết tiếng, thậm chí ở đại
hạn hay lưu niên cũng có ý vị này.
Tinh hệ "Tử vi Thiên tướng" thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, mà Tử vi
hóa Khoa, ắt sẽ đồng thời gặp Kình dương đồng độ, hoặc Kình Đà giao
hội, có Phá quân độc tọa ở đối cung, tam phương hội cung có "Vũ khúc
Thiên phủ" ở cung Tài và Liêm trinh độc tọa ở cung Sự nghiệp.
Nhóm tinh hệ này Tử vi rất ưa được hóa Khoa, vì Thiên tướng đồng độ với
Tử vi nên Thiên cơ hóa Lộc và Thiên lương hóa Quyền tất sẽ giáp cung,
chủ về người có tài năng đặc biệt. Ngoại trừ trường hợp Tử vi độc tọa ở
hai cung Tý hoặc Ngọ, đây cũng là nhóm tinh hệ lợi về nghiên cứu học
thuật.
Liên quan đến khuynh hướng của tài năng, phải xem xét các sao hội hợp có
tính chất mạnh yếu như thế nào mà định. Nếu "Vũ khúc Thiên phủ" có lực
mạnh thì giỏi quản lý tài chính, nếu Liêm trinh có lực mạnh thì có tài
năng văn nghệ, nhưng có lúc cũng chủ về làm việc trong chính giới, lấy
thỏa hiệp làm sở trường, chưa chắc đã có lập trường nhất định.
Tinh hệ "Tử vi Thất sát" thủ Mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, mà Tử vi
hóa Khoa, đối cung là Thiên phủ, tam phương hội cung có "Liêm trinh Phá
quân" ở cung Sự nghiệp, và "Vũ khúc Tham lang" ở cung Tài.
Tử vi và Thất sát đồng độ đã có sắc thái quyền lực, khi Tử vi hóa Khoa
khiến cho quyền lực và danh dự đều được vẻ vang, rực rỡ, do đó đây cũng
là kết cấu tinh hệ có tính chất tốt lành.
Khi quyền lực và danh dự vẻ vang rực rỡ, thì lại có khuyết điểm là: lý
tưởng của đời người đặt ở vị thế quá cao, thế là theo đuổi lý tưởng
không ngừng nghỉ, đời người khó tránh vất vả và khổ lụy. Ở tuổi vãn niên
có lúc bỗng cảm thấy cuộc đời là hư ảo, rồi sinh buồn rầu, thích bàn
luận triết lý.
Ngoài ra tinh hệ này cũng chủ về tình cảm vợ chồng thường có tì vết,
nhưng mệnh tạo lại thích che dấu, không cho người ngoài biết.
Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tính hệ này, thường thường chủ về biến đổi quyền lực, thông thường là ở vận tốt.
23- Văn Xương - can Bính hóa Khoa
Văn Xương ưa hóa Khoa, nếu so với Văn Khúc, thì Văn xương hóa Khoa thiết
thực hơn. Trong các tình hình thông thường, khi Văn xương hóa Khoa lợi
về các cuộc thi cử quan trọng, cũng lợi về văn học nghệ thuật, hoặc
phương diện nghiên cứu học thuật, chủ về nhờ đó mà mang lại danh dự,
thậm chí nhờ đó mà mang lại lợi lộc.
Văn xương hóa Khoa ở cung nhập miếu, sẽ chủ về làm tăng năng lực
nghiên cứu, có sở trường về lý giải và có thể phát huy, vì vậy chẳng
phải cái được là hư danh. Chỉ khi nào Hóa Khoa ở cung lạc hãm (tức 3
cung Dần Ngọ Tuất), thì mới chủ về tự thỏa mãn về mặt tinh thần, có ý vị
chỉ được hư danh.
Văn xương hóa Khoa, chủ về nhờ điển thí mà thành danh. Ở thời hiện
đại cũng có thể biểu trưng cho sức cạnh tranh trong thi cử, hoặc canh
tranh đắc lợi ở phương diện văn nghệ học thuật. Nếu gặp thêm Thiên khôi
Thiên việt, mà chính diệu lại "thuần thanh", thì lợi về tham gia các
cuộc thi cử cấp quốc gia, hoặc các cuộc thi cử chứng nhận tư cách chuyên
viên cao cấp. Hai sao Khôi Việt thường thường có thể giúp thành công,
nên Văn xương hóa Khoa rất ưa được chúng phối hợp.
Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp Văn xương hóa Khoa, có lúc chủ về
được thuyết trình phát biểu tác phẩm chuyên đề, nhà văn thì có tác phẩm
xuất bản; cũng lợi về thi cử, hoặc công tác nghiên cứu trước khi thi cử
có tâm đắc đặc biệt, cho nên các cuộc thi cử không cần Văn xương hóa
Khoa ở năm xảy ra cuộc thi cử, mà trước thi cử một năm cũng có lợi.
24- Thiên Cơ - can Đinh hóa Khoa
Thiên cơ hóa Khoa không chủ về nghiên cứu học thuật, chỉ khi gặp
Xương Khúc Khôi Việt hội hợp, mới có ý vị nhiên cứu học thuật. Cũng có
thể khi Thiên cơ hóa Khoa có một số biểu hiện nhưng không liên quan đến
học thuật, nhưng vẫn khiến cho người ta trọng dụng. Ví dụ như thắng một
giải đua xe, đây là do ở xã hội hiện đại xem trọng về mức độ học lực có
chuyên nghiệp và chuyên sâu hay không? cho nên bản chất của Thiên cơ hóa
Khoa cũng được phát huy khá lớn.
Thiên cơ thuộc nhóm sao hiếu động, trôi nổi, tuy hiếu học nhưng không
thiết thực, thậm chí thường hay có kỹ xảo, hoặc thường phô trương thái
quá, thường thiếu và ít có những trải nghiệm thực tế, .v.v... tất cả đều
là những khuyết điểm cơ bản của nó. Nhưng sau khi Thiên cơ hóa Khoa, có
thể khiến cho những nghiên cứu trở thành thiết thực, mà còn có thiên
hướng về khoa học kỹ thuật, toán học. Nhưng bất kể như thế nào, Thiên cơ
hóa Khoa chỉ lợi về vạch kế hoạch, mà bất lợi về thực hành, cho nên có
lợi nhất khi trở thành vai trò người tham mưu hay người cố vấn, hay môi
trường các cấp cục, vụ, viện, phòng, ban, có chức năng tổng hợp và phân
tích tin tức.
Thiên cơ hóa Khoa còn có tính chất xu phụ quyền thế, thấy sang bắt quàng
làm họ, hễ có cơ hội thì liền làm quen, đầu tư quan hệ rất nhiều với
những người nổi tiếng hay người có vị thế quyền lực cao, để bản thân
cũng được nhiều người biết.
Lúc Thiên cơ hóa Khoa có tứ Sát tinh đồng độ, thì thích hợp nghiên cứu
về khoa học tự nhiên như toán lý, khuynh hướng công nghệ thông tin, máy
tính, .v.v... cuộc sống thường ngày cũng hay bộc lộ tính cách hướng theo
những trào lưu mới.
Thiên cơ hóa Khoa có sao Văn hoặc sao "Không" đồng độ, thì có khuynh
hướng tìm đến những vấn đề thần bí, nên thích hợp nghiên cứu tôn giáo,
triết học, thuật số, hay những bộ môn học thuật mang tính "tương cận."
Thiên cơ độc tọa thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, có Lộc
tồn đồng độ hoặc vây chiếu, đối cung là Cự môn sẽ đồng thời hóa Kị. Tam
phương hội cung có Thái âm độc tọa cũng hóa Lộc ở cung Sự nghiệp, và
"Thiên đồng Thiên lương" mà Thiên đồng hóa Quyền ở cung Tài. Đây là kết
cấu tinh hệ hội tụ đủ tứ hóa diệu.
Do ảnh hưởng của Cự môn hóa Kị, cho nên tính chất của "Lộc Quyền Khoa
hội cách" sẽ phát huy biến thành cách "dùng lời nói để kiếm tiền". Cự
môn ở cung Ngọ thì Thái dương ở cung Tuất không có năng lực giải "ám".
Cự môn ở cung Tý thì Thái dương ở cung Thìn, lại có năng lực giải "ám"
khá tốt. Do đó có thể nói Thiên cơ hóa Khoa ở cung Tý chuốc nhiều thị
phi hơn ở cung Ngọ. Nhưng ý vị "dùng lời nói để kiếm tiền" thì ở hai
cung đều như nhau.
Phàm là Thiên cơ hóa Khoa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, cần phải quan sát nhóm
sao "Thiên đồng Thiên lương" ở cung Tài bạch, xem chúng có năng lực
sáng tạo hay không?, hay có sắc thái lưu lạc, rời xa người thân hay
không?. Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến tính chất của Thiên cơ hóa
Khoa ở cung Mệnh.
Thiên cơ độc tọa thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Sửu hoặc Mùi, đối cung
là Thiên lương, có Kình dương đồng độ, hoặc bị Kình Đà chiếu xạ. Tam
phương hội hợp là Cự môn hóa Kị ở cung Sự nghiệp, và Thiên đồng hóa
Quyền ở cung Tài bạch.
Do ảnh hưởng của Cự môn hóa Kị ở cung Sự nghiệp và hội với Sát tinh,
Thiên cơ hóa Khoa ở hai cung này chỉ thích hợp với những ngành nghề như
công nghệ, quảng bá. kế, thiết kế. Có điều là dù trước hay sau, thì vẫn
thiếu khí khái của người "một mình đảm trách công việc".
Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ này, có lúc chỉ là biểu hiện khi
được xu nịnh ắt sẽ trổ tài vặt. Thiên cơ hóa Khoa ở hai cung Tý hoặc Ngọ
cũng có tính chất này, nhưng biểu hiện khá tốt, hơn nữa còn có nhiều
điểm mang lại lợi ích thực tế, còn Thiên cơ hóa Khoa ở hai cung Sửu hoặc
Mùi thì không được như vậy.
Tinh hệ "Thiên cơ Thái âm" thủ Mệnh ở hau cung Dần hoặc Thân, mà
Thiên cơ hóa Khoa thì Thái âm ắt sẽ đồng thời hóa Lộc. Tham khảo ở đoạn
thuật "Thái âm hóa Lộc".
Tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Thiên
cơ hóa Khoa thì Cự môn đồng thời hóa Kị, lại còn gặp Sát tinh. Tam
phương hội hợp có Thiên đồng hóa Quyền ở cung Tài bạch, và phải vay mượn
mượn tinh hệ "Thái dương Thái âm" để nhập cung Sự nghiệp, có Thái âm
hóa Lộc.
Tinh hệ kết cấu dạng này cũng tụ lập đủ tứ hóa diệu, nhưng do Thiên cơ
và Cự môn đồng độ, có Hóa Khoa và Hóa Kị cùng bay đến, do đó có khác với
Thiên cơ hóa Khoa ở hai cung Tý hoặc Ngọ. Ngoại trừ việc phải nhấn mạnh
tính chất "dùng lời nói để kiếm tiền" ra, thì vẫn rất khó tránh khỏi
thị phi, hao tâm tổn thần, phải vất vả nói năng cũng là đặc trưng của
nó.
Tinh hệ này cũng có sắc thái trôi nổi, không thiết thực, cho nên nhất là phái nữ không nên có mệnh cục này thủ Mệnh.
Ở đại hạn hoặc lưu niên gặp tổ hợp sao này, cần phải đề phòng điều tiếng
thị phi, "khoa trương" và "điều tiếng" sẽ cùng đến, nhất là "khoa
trương" có tính chất xu phụ thường bị người ta chỉ trích.
Tinh hệ "Thiên cơ Thiên lương" thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, mà
Thiên cơ hóa Khoa, tam phương tương hội "Thiên đồng Thái âm" ở cung Tài
bạch, trong đó chia nhau một hóa Quyền một hóa Lộc, và phải bị vay mượn
"Thái dương Cự môn" để nhập cung Sự nghiệp, mà Cự môn lại hóa Kị.
Nhóm tinh hệ này cũng hội đủ tứ hóa diệu, nhưng do cung Sự nghiệp bị
buộc phải vay mượn "Thái dương Cự môn" có Cự môn hóa Kị, cho nên ý vị
"dùng lời nói để kiếm tiền" càng mang đậm sắc thái này, khi theo những
ngành nghề luật sư, pháp luật, pháp lý, tư pháp, .v.v... thì trái lại sẽ
chủ về có danh vọng. Nếu theo nghiên cứu chuyên về học thuật, thì chỉ
nên theo những ngành khoa học kỹ thuật, công nghệ, đối với các ngành
chuyên nghiệp mang tính chuyên sâu cao sẽ rất khó thâm nhập.
Do Thiên cơ hóa Khoa, cũng có thể làm công tác kế hoạch, lập chương
trình, vẫn phù hợp với sắc thái "miệng lưỡi", như lập chương trình quảng
bá, quan hệ công cộng, nghệ thuật biểu diễn, .v.v...
Tinh hệ này bất lợi về hôn nhân, thường chủ về thông hôn với người ở nơi
xa (do phải đi việc ở nơi xa mà nảy sinh tìm cảm) hay với người ngoại
quốc, hoặc chủ về gia thế của người phối ngẫu không tương xứng, mà người
phối ngẫu cũng có sắc thái "dùng lời nói để kiếm tiền" tương hợp.
Ở đại hạn hoặc lưu niên gặp tinh hệ này, cần phải chú ý cung "Thái dương
Cự môn" đồng độ, xem có gặp các sao Hình Hao hay không? nếu có, thì có
thể vì kế hoạch sai lầm mà chuốc điều tiếng thị phi rất nghiêm trọng.
Thiên cơ độc tọa thủ Mệnh, hóa khoa ở hai cung Tị hoặc Hợi, ắt sẽ
đồng thời có Đà la đồng độ hoặc Kình dương Đà la giao hội, đối cung là
Thái âm hóa Lộc. Tam phương hội cung có "Thiên đồng Cự môn" ở cung Tài
bạch, phân ra một sao hóa Quyền một sao hóa Kị, và vay mượn "Thái dương
Thiên lương" để nhập cung Sự nghiệp.
Nhóm tinh hệ này có cách cục cao hay thấp, là do tính chất của Thái
dương và Thiên lương đồng độ quyết định, ở cung Mão thì tốt hơn ở cung
Dậu, sẽ gây ảnh hưởng đến Thiên cơ hóa Khoa, ở cung Tị cũng tốt hơn cung
Hợi.
So sánh hai cung độ, thì cung Hợi chỉ chủ về hư danh, cung Tị được thiết
thực hơn. Tam phương hội "Thiên đồng Cự môn", nên không chủ về "dùng
lời nói để kiếm tiền", mà chỉ chủ về "có điều thầm kín khó nói về tình
cảm" ràng buộc rất sâu đậm.
Tinh hệ này biểu trưng cho hiện tượng "chậm phát", nhất là ở cung Hợi
thì càng nghiệm. Then chốt chủ yếu là ở vận trình Phá quân nhập cung
Mệnh của vận hạn. Do vì Thiên cơ có tính chất hiếu động, trôi nổi, còn
Phá quân thì chủ về khai sáng, có thể khai sáng thành công hay không?
phải xem các sao Phụ diệu, Tá diệu hội hợp mà định.
Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ này, thông thường chủ về danh dự
và tài lộc song thu, nhưng phải không gặp các sao Sát - Hình thì mới
đúng.
25- Thái Dương - can Mậu hóa Khoa
Thái dương chủ về "Quý" nên ưa hóa Khoa. Có điều phải ở cung miếu
vượng mới chủ về có danh dự và địa vị trong xã hội. Nếu Thái dương hóa
Khoa nhập cung hãm địa, thì chỉ có hư danh, nhất là dễ vì chính cái "hư
danh" mà bị gây liên lụy.
Hóa Khoa làm tăng năng lực hướng ngoại của Thái dương, do đó thường
làm người ta để ý và đố kị. Vì vậy, cần xem xét cung Huynh hệ và cung
Giao hữu gây ảnh hưởng như thế nào đến mệnh tạo? sẽ quyết định là Cát
hay là Hung đối với Thái dương hóa Khoa thủ Mệnh.
Nếu Thái Dương hóa Khoa hội Thiên lương, mà còn có các sao Sát - Kị -
Hình hội chiếu, thì cổ nhân định lệ đây là tổ hợp tinh hệ "phục độc"
(dùng độc dược). Ở thời hiện đại, có thể nhuyễn hóa thành sử dụng ma
túy, mua bán ma túy, hoặc bị bệnh mà uống nhầm thuốc, thậm chí phác đồ
điều trị còn bị sai lầm. Cần phải quan sát toàn Cục để định tính chất cụ
thể.
Thái Dương thủ Mệnh hóa Khoa, cung Phúc đức ắt sẽ là Thiên Cơ hóa Kị,
do đó có thể biết, khi cầu danh sẽ bị quấy nhiễu, gây khó khăn về mặt
tinh thần. Lúc luận đoán nên xem xét tính chất của tình trạng bị quấy
nhiễu gây khó khăn này. Kết cấu tốt nhất là bị quấy nhiễu, gây khó khăn
về mặt nghiên cứu học thuật. Kết cấu xấu nhất là bị quấy nhiễu, gây khó
khăn do điều tiếng thị phi.
Chỉ khi gặp Văn Xương và Văn Khúc giao hội, thì Thái Dương hóa Khoa
mới có lợi về "điển thí", cổ nhân gọi đây là cách "đan trì". Nhưng dù
không gặp Xương Khúc, thông thường Thái Dương hóa Khoa cũng chủ về thông
minh, nhân sinh đắc ý là do cảm giác thành tựu và được nhiều người biết
đến mà có.
Thái Dương độc tọa thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, gặp
Kình dương đồng độ hoặc vây chiếu, đối cung là Thiên Lương xung chiếu,
tam phương tương hội Cự môn độc tọa ở cung Sự nghiệp, và phải mượn
"Thiên cơ Thái âm" nhập cung Tài bạch để hội hợp, mà Thiên Cơ hóa Kị và
Thái Âm hóa Quyền.
Thái Dương sau khi hóa Khoa, sẽ làm mạnh thêm năng lực giải "ám" của Cự
Môn và bản chất "cô độc và hình khắc" của Thiên Lương, đồng thời còn
mang lại danh tiếng. Nhưng những tác dụng này, lại có sự khác nhau giữa
hai cung Tý và Ngọ.
Thái Dương hóa Khoa ở cung Tý, tác dụng lớn nhất chỉ là giảm bớt tính
"thị phi" của Cự Môn và giảm bớt tính "cô độc và hình khắc" của Thiên
Lương. Ví dụ như tính chất bất lợi ban đầu đối với người cha có thể là
"tử biệt", thì sau khi Thái dương hóa Khoa sẽ biến thành "sinh ly", còn
tác dụng mang lại tiếng tăm thì chỉ giới hạn trong một phạm vi nhỏ.
Thái Dương hóa Khoa ở cung Ngọ, cũng có thể giảm bớt tính "thị phi" và
tính "cô độc và hình khắc" của Cự môn và Thiên lương, nhưng tác dụng lớn
nhất mang lại đó là danh tiếng có tính chất quảng đại công chúng. Có
điều, lúc nổi tiếng sẽ làm cho sự nghiệp có vẻ lớn lao, nhưng thực ra
bên trong lại trống rỗng. Đây chính là khuyết điểm của Thái Dương hướng
ngoại một cách thái quá.
Tinh hệ "Thái dương Thái âm" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà có
Thái dương hóa Khoa thì Thái âm ắt sẽ hóa Quyền. Tham khảo ở đoạn thuật
"Thái âm hóa quyền".
Tinh hệ "Thái dương Cự môn" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà
Thái dương hóa Khoa, tam phương tương hội mượn "Thái âm Thiên đồng" có
Thái âm hóa Quyền để nhập cung Sự nghiệp, và mượn "Thiên cơ Thiên lương"
để nhập cung Tài bạch có Thiên cơ hóa Kị. Tổ hợp tinh hệ này "tam
phương tứ chính" đều gặp Sát tinh.
Thái Dương hóa Khoa ở hai cung này, tác dụng chủ yếu chỉ làm tăng mạnh
sức thuyết phục của ngôn từ, và khiến cho Hóa Kị của tinh hệ "Thiên cơ
Thiên lương" ở cung Tài bạch chủ về lao tâm tổn thần, mà không chủ về
"thị phi" hoặc phạm sai lầm, do đó cũng làm mạnh thêm tính chất "dùng
lời nói để kiếm tiền".
Tinh hệ này có lúc còn biểu trưng cho "thiên tài về ngôn ngữ", chủ về
học nói tiếng nước ngoài và tiếng địa phương khác rất dễ dàng (nhưng chỉ
về "nghe nói", chứ không phải "đọc viết" tiếng nước ngoài).
Ở lưu niên hay đại hạn mà gặp tinh hệ này, cần chú ý đến cơ hội khi
thuyết phục người khác, và thường thường nhờ vào đó mà gặp được hoàn
cảnh thuận lợi.
Tinh hệ "Thái dương Thiên lương" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà
Thái Dương hóa Khoa (Mệnh ở cung Dậu có thể gặp Lộc Tồn ở cung Tị). Tam
phương tương hội với Thái Âm hóa Quyền ở cung Tài bạch, và mượn "Thiên
đồng Cự môn" nhập cung Sự nghiệp để hội hợp.
Kết cấu tinh hệ này chỉ chủ về làm tăng độ danh tiếng, và khiến cho phạm
vi nổi tiếng mở rộng. Ví dụ như một vị Giáo sư, danh tiếng của ông vốn
chỉ được biết đến trong nội bộ, nhiều lắm cũng chỉ được biết đến trong
giới học thuật. Nhưng khi gặp Thái Dương hóa Khoa lại có thể khiến cho
danh tiếng của ông lan tỏa rộng ra xã hội, cho dù không phải là người
trong nghề, thậm chí không ở trong giới học thuật, cũng biết có vị giáo
sư này. Đây là tác dụng của Thái Dương hóa Khoa.
Thái Dương hóa Khoa ở cung Mệnh tương hội Thái Âm hóa Quyền, thì Thái Âm
không còn chủ về "tài khí", mà chỉ chủ về lợi ích do danh tiếng mang
lại, còn Hóa Quyền chỉ làm tăng tính ổn định của nó.
Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, thường thường có lợi về
thi cử, hoặc có lợi khi cạnh tranh, nhờ vào đó mà mang lại lợi ích (ví
như đoạt giải thưởng).
Thái Dương độc tọa thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Thìn hoặc Tuất, có
Đà la đồng độ hoặc Kình dương Đà la giao hội, đối cung là Thái âm hóa
Quyền, tam phương tương hội với Cự môn độc tọa ở cung Tài bạch, và mượn
"Thiên đồng Thiên lương" để nhập cung Sự nghiệp.
Hai cung Thìn và Tuất vốn là "Thiên la Địa võng", khi Thái Dương hóa
Khoa thì không cần đột phá, đối với ánh sáng chói lọi của Thái Dương thì
"thiên la địa võng" cũng không thể làm lu mờ. Vì vậy thường thường có
cơ hội thoát ra khỏi những cảnh ngộ không hay.
Thái dương ở cung Thìn là mặt trời mọc, lúc Hóa Khoa thì càng thêm chói
lọi, cho nên những biểu hiện mong muốn bộc lộ ra bên ngoài được thuật
lợi và dễ dàng hơn, nhưng cũng dễ chuốc lấy đố kị. Thái dương ở cung
Tuất là mặt trời lặn về Tây, dù có Hóa Khoa, thì muốn biểu hiện cũng chỉ
được cái nhỏ, hơn nữa những cái mong muốn biểu hiện này, cũng chỉ thuộc
về hư danh. Vì vậy cũng chỉ có thể lợi dụng vào hư danh để mưu cầu phát
triển.
Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ này, chỉ chủ về có những biểu
hiện được bộc lộ ra bên ngoài và nhờ vào đó mang lại lợi ích.
Thái Dương độc tọa thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Tị hoặc Hợi, ắt sẽ
có Lộc tồn đồng cung hoặc vây chiếu, đối cung là Cự Môn. Tam phương
tương hội với Thái Âm độc tọa hóa Quyền ở cung Quan, và hội hợp với
Thiên lương độc tọa ở cung Tài bạch.
Do đối nhau với Cự Môn, nên Thái Dương hóa Khoa cũng chủ về "thiên
tài ngôn ngữ", nhưng lại không chủ về ngôn từ có sức thuyết phục, chỉ
biểu hiện là giỏi biện luận. Nếu gặp các sao đào hoa, thì có thể phát
triển thành tài ăn nói ở các phương diện như ca xướng, người điều khiển
dẫn chương trình, nghệ thuận biểu diễn, .v.v...
Thái dương hóa Khoa ở cung Tị thì thanh danh khá thực tế, hóa Khoa ở
cung Hợi thì chỉ có hư danh (ví dụ như giáo sư thâm niên, thanh danh vốn
chỉ nhờ lâu năm, chứ không phải nhờ có biểu hiện đặc biệt).
Cự Môn đồng thời còn mang lại điều tiếng thị phi, khi Thái Dương hóa Khoa ở cung Tị cũng được hóa giải một cách dễ dàng hơn.
Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ này, cũng chủ về có biểu hiện lý tưởng, và nhờ vào đó mà thu được lợi ích.
26- Thiên Lương - can Kỷ hóa Khoa
Thiên lương là sao sang quý, Hóa Khoa khá hợp với khí chất của nó. Vì
vậy có thể làm mạnh thêm khí chất hành động một mình, tuyệt đối không
bị cuốn theo dòng nước.
Thiên Lương hóa Khoa còn làm tăng thêm trí tuệ, khiến khả năng lãnh
ngộ có thể được tăng lên, do đó cũng làm tăng năng lực quan sát, nên
cũng có lợi về thi cử, nhất là phạm vi thi cử chuyên nghiệp.
Sau khi Thiên Lương hóa Khoa, lại có nguy cơ tự sùng bái cá nhân
mình, vì vậy chẳng thể mang lại lợi ích một cách thực tế, hoặc chỉ thu
được lợi ích một cách có giới hạn.
Thiên Lương vốn có bản chất "tiêu tai giải nạn", sau khi Hóa Khoa,
bản chất này càng rõ nét, có thể chuyển nguy thành an khiến cho vấn đề
được giải quyết tận gốc, từ đó quét sạch những phiền phức kéo dài lâu
ngày. Ví dụ người hay bị đau dạ dày, vì bị xuất huyết nên được điều trị
triệt để, nhờ vậy không bị đau dây dưa nữa.
Lúc Thiên Lương "tiêu tai giải nạn", thường thường khó tránh phải
dùng biện pháp mạnh, khiến cho người ta cảm thấy đau khổ. Nhưng sau khí
Hóa Khoa, biện pháp sẽ ôn hòa, đau khổ cũng ít hơn.
Người Thiên Lương hóa Khoa thủ Mệnh thích hợp với những ngành về y
học, trị liệu, công tác xã hội, đây là mưu sinh bằng cách "tiêu tai giải
khó" cho người khác, nhờ vậy cũng giảm bớt những khó khăn của bản thân.
Người Thiên Lương hóa Khoa thủ Mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ, có Thái
Dương vây chiếu, tam phương tương hội có Thiên đồng độc tọa ở cung Sự
nghiệp, và "Thiên cơ Thái âm" ở cung Tài bạch. Thiên Lương ắt sẽ có Lộc
tồn đồng độ hoặc vậy chiếu, vì vậy có thể thành cách "Dương Lương Xương
Lộc".
Người thành cách "Dương Lương Xương Lộc", do Thiên Lương hóa Khoa sẽ làm
mạnh thêm bản chất "Dương Lương Xương Lộc". Cho nên có lợi về thi cử,
có lợi về cạnh tranh. Dù không gặp Văn xương Văn khúc mà không thành
Cách, thì vẫn có lợi về thi cử và cạnh tranh, nhưng mức độ thì không
bằng người thành cách "Dương Lương Xương Lộc".
Tinh hệ này cũng thuộc cách "Cơ Nguyệt Đồng Lương", người Thiên Lương
hóa Khoa thủ Mệnh vốn đã có bản chất phục vụ, một khi có địa vị xã hội
cao tất nhiên sẽ rất quý danh dự, chỉ ngại nhất khi xử sự trong quan hệ
giao tế, lại thường sử lý quá nguyên tắc một cách không cần thiết.
Thiên Lương độc tọa thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Sửu hoặc Mùi, đối
nhau với Thiên Cơ, tam phương tương hội với Thái Âm độc tọa ở cung Tài
bạch, và Thái Dương độc tọa ở cung Sự nghiệp. Cung độ của thiên Lương ắt
sẽ gặp Kình Dương.
Thiên Lương bị ảnh hưởng của Thiên Cơ ở đối cung, tâm trạng vốn không
ổn định, sau khi hóa Khoa tâm trạng sẽ biến thành ổn định.
Do Thái Dương và Thái Âm cùng chiếu, có lúc sẽ khiến Thiên Lương biến thành hay do dự hoặc ở trong tình cảnh phải lưỡng lự.
Nhưng vì ảnh hưởng của Kình Dương, khi Thiên Lương hóa Khoa nhiều khi
sẽ biến thành không câu nệ vào nguyên tắc, cho nên không tốt bằng Thiên
Lương hóa Khoa ở hai cung Tý hoặc Ngọ.
Tinh hệ "Thiên đồng Thiên lương" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân,
mà Thiên Lương hóa Khoa, tam phương hội Thiên cơ độc tọa ở cung Sự
nghiệp, và Thái Âm độc tọa ở cung Tài bạch. Đây là cách thuần túy "Cơ
Nguyệt Đồng Lương". Ở cung Dần được hội Lộc tồn.
Do Thiên Lương đồng độ với Thiên Đồng, khiến cho Thiên Lương hóa Khoa
tăng thêm phong cách cá nhân, hoặc có phong thái tiêu sái của bậc danh
sỹ, cho nên rất thích hợp làm cố vấn, có địa vị mà không cần phải làm
hay phụ trách công tác thực tế, hoặc thích hợp với những nghề nghiệp tự
do có tính chuyên nghiệp.
Nếu gặp Văn Khúc hóa Kị cùng bay đến, có thể là văn sỹ giang hồ hay
"hào môn thanh khách" (kẻ làm khách của nhà giầu thời xưa).
Tinh hệ "Thái dương Thiên lương" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà
Thiên Lương hóa Khoa, tam phương hội có Thái âm độc tọa ở cung Tài
bạch, mượn "Thiên đồng Cự môn" để nhập cung Sự nghiệp. Kết cấu này "tam
phương tứ chính" đều gặp Sát tinh, không cần thành cách "Dương Lương
Xương Lộc" đã có tính chất cạnh tranh, đồng thời do Thiên Lương sau khi
hóa Khoa đã giảm bớt tính "cô độc và hình khắc", vì vậy sức mạnh của
Thái Dương càng được phát huy, giúp cho sự tăng thanh danh và biểu hiện
bản thân.
Tinh hệ này thích hợp cho giới nghiên cứu học thuật, bởi vì bản thân
"Thái dương Thiên lương" đã có sắc thái giữ nguyên tắc, mà nghiên cứu
học thuật là xác lập nguyên tắc hoặc xác lập định nghĩa. Cho nên "Thái
dương Thiên lương" không thiên về văn nghệ, dù gặp Văn Xương cũng chỉ
nâng cao năng lực lý giải và khảo cứu.
Nếu có Văn Khúc hóa Kị đồng độ, thì nên nghiên cứu học thuật một cách khách quan, nếu không ắt sẽ nảy sinh nhiều tranh luận.
Tinh hệ "Thiên cơ Thiên lương" thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, mà
Thiên Lương hóa Khoa (ở cung Tuất được hội Lộc tồn), tam phương tương
hội "Thiên đồng Thái âm" ở cung Tài bạch, vay mượn "Thái dương Cự môn"
nhập cung Sự nghiệp để hội hợp.
Do đồng độ với Thiên Cơ, với tính chất do dự và không ổn định, cho
nên tinh hệ này trái ngược với tinh hệ "Thái dương Thiên lương" chủ về
hướng ngoại mà không hướng nội. Vì vậy thích hợp với ngành nghề như
quảng bá, quan hệ công cộng, ngoại vụ, .v.v... Hóa Khoa chủ về "danh
khí", giúp cho biểu hiện về công việc.
Nếu theo những ngành nghê như nội vụ, quản lý, thiết kế, .v.v ... thì
cần phải phát huy phong cách cá nhân một cách đầy đủ, thì mới có thành
tựu.
Thiên Lương độc tọa thủ Mệnh hóa Khoa ở hai cung Tị hoặc Hợi, đối
cung với Thiên Đồng, tam phương hội "Thái dương Thái âm" ở cung Tài
bạch, mượn "Thiên cơ Cự môn" nhập cung Sự nghiệp để hội hợp. Cung Mệnh
ắt dẽ gặp Đà La.
Tinh hệ này có kết cấu phức tạp, cho nên sắc thái quảng bá và văn
nghệ giảm nhiều, tính chất của Thiên lương nhuyễn hóa thành mạo hiểm.
Hóa Khoa chỉ làm tăng danh vọng trong nội bộ, không nên dương danh ở bên
ngoài, nếu không ắt sẽ mang lại tai nạn và nguy hiểm.
Nhưng do Thiên Lương hóa Khoa, nên cho dù có tai ách cũng dễ chịu đựng, còn có thể chuyển "nguy" thành "an".
28- Văn Khúc - can Tân hóa Khoa
Can Tân là Văn Khúc hóa Khoa và Văn xương hóa Kị, hai sao này thường gặp
nhau trong mệnh bàn, do đó cần phải lưu ý bản chất đặc biệt lúc chúng
tương hội.
Thông thường, có thể biểu trưng cho học hành thông minh, nhưng lúc xử sự
hay ỷ vào sự thông minh của mình, mà thường tự cho mình là đúng. Ở giai
đoạn còn đi học, thì chủ về có nhiều hứng thú với toán lý, hoặc ngoại
ngữ.
Tính chất cơ bản của Văn khúc hóa Khoa hơi giống Văn xương, đã gặp thuật
ở bài trước. Làm tăng năng lực biện luận, ngôn từ dễ làm vui lòng người
khác và hấp dẫn người khác giới.
Văn khúc ở 3 cung Dần Ngọ Tuất là hãm nhược, cho dù có Hóa Khoa, cũng chủ về có mầm mà không trổ bông.
Các tính chất còn lại tham khảo ở mục "Văn Xương hóa Khoa"
29- Thiên Phủ - can Nhâm hóa Khoa
Phái Trung Châu định lệ Thiên Phủ hóa Khoa, còn các phái khác thì
Thái Dương và Thiên Phủ không hóa Khoa, mà thay vào đó là Tả phụ và Hữu
bật.
Sự truyền thụ nào thì cũng có nguồn gốc lịch sử của nó, do đó tốt
nhất là giải quyết theo cách: để cả hai thuyết cùng lưu truyền tùy theo
môn phái.
Thiên Phủ hóa Khoa có uy tín như giới ngân hàng, uy tín là điều tối
trọng yếu của ngân hàng, cho nên phái Trung Châu cho rằng khi Thiên Phủ
hóa Khoa cũng không phải là vô lý.
Do đó, ý nghĩa của Thiên Phủ hóa Khoa cực kỳ đơn giản, nó không giống
như các Sao khác, thông thường sau khi Hóa Khoa sẽ có bản chất "lưỡng
trùng", đó là vừa cải thiện khuyết điểm, vừa làm tăng năng lực cho sự
biểu hiện. Nhưng bản chất của Thiên Phủ hóa Khoa chỉ có một, đó là làm
tăng mức độ của uy tín. Thực ra đây cũng đã bao gồm bản chất "lưỡng
trùng" đã thuật ở trên. Bởi vì "kho tiền" mà có uy tín thì đương nhiên
phải rất ít khuyết điểm, đồng thời phải có biểu hiện tốt thì mới tạo
dựng được uy tín.
Cho nên, Thiên Phủ thuộc vào loại "kho trống", "kho lộ" vốn chủ về
gian xảo, nhưng sau khi hóa Khoa, thì dù là "kho lộ" hay "kho trống",
cũng biến thành không thể gian xảo.
Tinh hệ "Vũ khúc Thiên Phủ" thủ Mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ, mà Thiên
Phủ hóa Khoa thì Vũ khúc ắt sẽ hóa Kị, còn đồng độ với Kình dương hoặc
có Đà la hội chiếu, đối cung là Thất sát, tam phương tương hội là Liêm
trinh độc tọa ở cung Tài bạch, và "Tử vi Thiên tướng" ở cung Sự nghiệp
mà Tử vi hóa Quyền.
Thông thường tổ hợp tinh hệ này không thích hợp tự kinh doanh làm ăn.
Vũ Khúc hóa Kị chủ về "nhập xuất" tài chính gặp khó khăn và nhiều nan
giải, còn Thiên Phủ hóa Khoa chủ về được người ta tín nhiệm, do đó kinh
doanh làm ăn dễ bị hoàn cảnh khách quan gây ảnh hưởng, biến thành mối
quan hệ tài chính có hệ số rủi ro rất cao. Lúc Thiên Phủ hóa Khoa chỉ
thích hợp làm việc trong ngành tín dụng hoặc chính giới, chủ về dễ được
thượng cấp tin tưởng đề bạt. Có điều không nên ở vị trí cao nhất, nếu
không sẽ dễ thất bại. Ngoài ra mệnh tạo cũng thích thực thi công việc có
tính liều lĩnh, mạo hiểm có hệ số nguy hiểm cao.
Đối với nữ mệnh, phần nhiều đều bất lợi về hôn nhân, thường ít có lạc
thú phòng the đối với chồng (nhưng vẫn thích lạc thú phòng the đối với
nhân tình).
Thiên Phủ độc tọa thủ Mệnh hóa Khoa ở hai cung Sửu hoặc Mùi, đối cung
là "Liêm trinh Thất sát", tam phương tương hội là Thiên tướng ở cung Sự
nghiệp, và mượn "Tử vi Tham lang" nhập cung Tài bạch để hội cung mà Tử
vi hóa Quyền.
Do Thiên Phủ hóa Khoa nên tinh hệ này vẫn chủ về tốt, vì ảnh hưởng
của "Tử vi Tham lang" ở cung Phúc nên có lúc xảy ra mâu thuẫn. Có trí
tiến thủ, chịu tiêu xài thích đáng trong giao tế, nhưng vẫn giữ tác
phong rất bảo thủ, nhất là quá xem trong chữ "tín".
Thiên Phủ hóa Khoa của tinh hệ này cũng chỉ có lợi khi ở địa vị " cấp
phó". Thích hợp với những nghề mang tính chuyên nghiệp, trong lúc làm
việc thường để lại uy tín và có thể còn được nhiều trợ lực.
Trọn lựa quyết định về địa vị đối với nhóm tinh hệ này là rất quan
trọng, thường thường sẽ biểu hiện khi đến các cung hạn như "Từ vi Tham
lang", "Vũ khúc Phá quân", "Liêm trinh Thất sát", những hành động thuộc
hậu thiên ở vào thời điểm này, có thể ảnh hưởng đến tình huống diễn biến
thực tế.
Nhưng về phương diện hôn nhân tinh hệ này cũng có khuyết điểm, nhất
là nữ mệnh, hoặc người phối ngẫu có những khiếm khuyết đáng tiếc, nên
dốc tâm vào việc giáo dục con cái.
Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ này, thì không có những bản
chất đã thuật ở trên, nhưng nên lưu ý đến cơ hội thăng chức, hoặc nguồn
tiền tài thay đổi theo hướng tốt, cũng chủ về là vận thế thuận lợi toại ý
nhưng vẫn rất bảo thủ.
Tinh hệ "Tử vi Thiên phủ" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thiên
phủ hóa Khoa thì Tử vi ắt sẽ hóa Quyền, có Lộc tồn đồng độ hoặc vậy
chiếu, đối cung là Thất sát, tam phương hội cung với Vũ khúc hóa Kị độc
tọa ở cung Tài bạch, và "Liêm trinh Thiên tướng" ở cung Sự nghiệp.
Khi Tử vi và Thiên phủ đồng độ, thì sức mạnh của Thiên Phủ thường khó
phát huy, có lúc biến thành gây liên lụy phản tác dụng. Nhưng trong kết
cấu tinh hệ này, lực của Thiên Phủ khá mạnh, tức có sao Lộc mà còn Hóa
Khoa, sẽ ảnh hưởng đến năng lực quyết đoán và chí tiến thủ của Tử vi tuy
bị giảm thấp, nhưng lại có thể tiến bộ trong sự phát triển ổn định.
Tinh hệ này có sở trường thích bàn luận về chính trị, binh pháp.
Nhưng tinh hệ này cũng bất lợi về hôn nhân, chủ về không hợp tính
cách với người phối ngẫu, nhìn bề ngoài vẫn duy trì mối quan hệ hôn
nhân, nhưng bên trong cấu thành nỗi đau khổ thầm kín.
Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, chủ về được tăng
quyền lực một cách thầm kín, lợi ích cũng nhờ đó mà tăng lên.
Thiên Phủ độc tọa thủ Mệnh hóa Khoa ở hai cung Mão hoặc Dậu, gặp Sát
tinh, đối cung là "Vũ khúc Thất sát" mà Vũ khúc hóa Kị, tam phương tương
hội là Thiên Tướng độc tọa ở cung Sự nghiệp, và mượn "Liêm trinh Tham
lang" để nhập cung Tài bạch. Thiên Phủ ở cung Mão được gặp Lộc tồn.
Tinh hệ này tuy bất lợi khi đi xa, nhưng "Liêm trinh Tham lang" ở
cung Phúc đức thường thường lại khiến mệnh tạo phải rời xa quê hương mới
phát triển tốt, dễ gặp vận trình tốt có tính phát đột ngột. Nếu cố thủ ở
nơi sinh ra, thì uy tín chỉ đạt được trong phạm vi hạn chế, sự nghiệp
phát triển nhỏ hơn, có thể vì danh tiếng trong địa phương quá nhỏ hẹp,
nên thường ở vào tình cảnh bị ép phải tham gia những cuộc thù tạc giao
tế mà bản thân không thích, thậm chí còn phải hao tổn, do đó tạo thành
những phiền phức khó xử trong lòng.
Cung Thiên Di có "Vũ khúc Thất sát" mà Thiên phủ hóa Khoa tương hội,
cho nên sau khi trải qua gian khổ ở xứ người, thì có thể tạo dựng được
sự nghiệp và được tin tưởng, cho nên có thể xoay chuyển được tình thế
công việc đúng lúc cần thiết nhất, đây là đặc điểm của tinh hệ này khi
Thiên Phủ hóa Khoa. Ngoài ý vị thích hợp với những ngành nghề mang tính
mạo hiểm có mức độ nguy hiểm cao, nếu mệnh tạo an phận thủ thường, ở lại
quê nhà thì không nên tự kinh doanh làm ăn, chỉ thích hợp làm nhân viên
hưởng lương.
Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, không nên mở rộng
việc kinh doanh làm ăn, chỉ chủ về vận trình tăng thêm vẻ vang.
Tinh hệ "Liêm trinh Thiên phủ" thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, mà
Thiên phủ hóa Khoa, đối cung là Thất sát, (ở cung Thìn mệnh tạo được
Lộc tồn hội chiếu), tam phương hội cung có Tử vi độc tọa ở cung Tài
bạch, và "Vũ khúc Thiên tướng" ở cung Sự nghiệp mà Vũ khúc hóa Kị. Cung
Mệnh gặp Sát tinh đồng độ hoặc vây chiếu.
Tinh hệ này, về sự nghiệp và hôn nhân đều có khuyết điểm.
Ở phương diện sự nghiệp, không nên tự sáng lập sự nghiệp, bất lợi
nhất là các công việc hay nghề nghiệp có liên quan đến tiền tệ, nghiệp
vụ ngân hàng, không được đầu cơ vì có đầu cơ thì cũng thất bại, nếu làm
việc hưởng lương thì cũng không được quản lý tiền bạc.
Về phương diện hôn nhân, thường chủ về tái hôn, mà cũng dễ "ngó đứt mà tơ vương".
Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, người kinh doanh làm
ăn phải đề phòng vấn đề xoay chuyển tiền bạc khó khăn, trắc trở về sự
nghiệp.
Thiên Phủ độc tọa thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Tị hoặc Hợi, có Lộc
tồn đồng độ hoặc vây chiếu, đối cung là "Tử vi Thất sát" mà Tử vi hóa
Quyền, tam phương tương hội với Thiên Tướng độc tọa ở cung Sự nghiệp, và
mượn "Vũ khúc Tham lang" nhập cung Tài bạch có Vũ khúc hóa Kị.
Tinh hệ dạng này chủ về đời người khá thuận lợi toại ý, nhưng phần
nhiều đều có thanh thế lớn bề ngoài, mà bên trong chi ra quá nhiều, may
mà có tín dụng chống đỡ, nên vẫn có thể vững bước phát triển sự nghiệp.
Thiên Phủ hóa Khoa thì không sợ thiếu nguồn tiền tài, nhưng khuyết
điểm lớn nhất của tinh hệ này là dễ xác định sai kế hoạch. Đạo "xu cát
tị hung" là cần phải kinh doanh thiết thực và sống có tiết chế một cách
thích đáng.
Ở lưu niên hoặc đại hạn mà gặp tinh hệ này, cũng phải lưu ý khuyết điểm đã thuật ở trên.
30- Thái Âm - can Quý hóa Khoa
Trong các tình hình thông thường, Thái Âm hóa Khoa là biểu trưng cho
sự tu dưỡng phát triển tài năng "nhân văn", thiên hướng nghiêng về văn
học nghệ thuật, khí chất nhàn nhã, thông minh tài trí.
Thái Âm nhập miếu mà Hóa Khoa, còn chủ về uy tín và danh tiếng, nếu
có Văn tinh hội hợp, ắt sẽ xuất thân từ điển thí mà có Danh; nếu có các
Sao đào hoa hội hợp, thì danh tiếng thuộc lĩnh vực giải trí, vui chơi,
văn nghệ biểu diễn; nếu có các Sao tiền tài hội hợp, thì có danh vọng và
uy tín trong giới làm ăn kinh doanh.
Thái Âm lạc hãm mà Hóa Khoa, ắt sẽ mang lại khuyết điểm, như bất lợi
đối với người thân phái nữ, vẫn có những tính chất giống như nhập miếu
mà Hóa Khoa, nhưng danh vọng thì nhỏ hơn.
Nữ mệnh gặp Thái Âm hóa Khoa thì thích hợp hơn nam mệnh, có thể làm
tăng tinh thần trách nhiệm đối với gia đình, quan tâm chăm sóc đến gia
đình nhiều hơn, đối với nam mệnh thì giảm bớt tính cách hướng nội mà
tăng khả năng hướng ngoại.
Thông thường, Thái Âm hóa Khoa cũng có lợi về hôn nhân; nam mệnh lấy
được vợ xinh đẹp; nữ mệnh lấy được chồng có năng lực làm việc, quan tâm
chăm sóc đến vợ con hơn, hoặc chồng có tài hoa chói lọi. Nhưng Thái Âm
hóa Khoa thì Tham Lang ở cung Phụ Mẫu ắt sẽ hóa Kị, là biểu trưng cho
hiện tượng thông thường "tài cao thì chuốc đố kị". Cho nên cần phải quan
sát các đại hạn xem có rơi vào tình huống bị áp chế hay không? Nếu thấy
gặp phải nhiều tình huống này, thì có tài mà không gặp thời.
Tinh hệ "Thiên đồng Thái âm" thủ Mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ, mà Thái
Âm hóa Khoa ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu; tam phương tương
hội với "Thiên cơ Thiên lương" ở cung Sự nghiệp, và mượn "Thái dương Cự
môn" để nhập cung Tài bạch có Cự môn hóa Quyền.
Trong tinh hệ này, Thái Âm hóa Khoa có sao Lộc là kết cấu tốt lành,
nếu lại được Văn Xương, Văn Khúc hội chiếu, thì đây là cách "Lộc Văn
củng mệnh", chủ về có vợ đẹp, khoa cử công danh thuận lợi. Ở thời hiện
đại thì thích hợp nghiên cứu học thuật.
Người có tinh hệ này thủ Mệnh, nam chủ về phong thái nho nhã, nữ chủ
về thích trang điểm làm đẹp. Cho nên đều tạo được "hảo cảm" với người
khác, nếu có tinh thần sung mãn thì toàn mỹ.
Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ này, chủ về tài lộc thuận lợi
toại ý, nhưng không biểu trưng cho việc sáng lập sự nghiệp.
Tinh hệ "Thái dương Thái âm" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà
Thái Âm hóa Khoa ắt sẽ đồng độ với Đà La, hoặc hội với Kình dương Đà la;
tam phương hội hợp với Thiên Lương độc tọa ở cung Sự nghiệp, và mượn
"Thiên cơ Cự môn" để nhập cung Tài bạch có Cự môn hóa Quyền.
Do Thái Âm đồng độ với Thái Dương, nên lực của Hóa Khoa có biểu hiện
kém hơn, không hiển hách bằng Thái Dương hóa Khoa, vì vậy chỉ có hư danh
về mặt danh nghĩa, mà không có lợi ích thực tế.
Thái Dương ở cung Sửu có sức ảnh hưởng nhỏ, do đó Thái Âm hóa Khoa ở
cung Sửu tốt hơn ở cung Mùi, ở cung Sửu khi Thái âm hóa Khoa sẽ được
thực tiễn hơn. Mượn "Thiên cơ Cự môn" để hội hợp mà Cự Môn hóa Quyền,
cho nên thích hợp "dùng lời nói để kiếm tiền", có thể phát huy năng lực
phục vụ của tài nói chuyện.
Nhưng nữ mệnh mà gặp nhóm tinh hệ này thì bất lợi về hôn nhân, đối
với nam mệnh có thể mượn lực của Thái Âm hóa Khoa để bổ khuyết.
Tinh hệ "Thiên cơ Thái âm" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thái
Âm hóa Khoa (ở cung Thân còn hội Lộc tồn). Tam phương hội hợp với Thiên
Đồng độc tọa ở cung Tài bạch, và Thiên Lương độc tọa ở cung Sự nghiệp.
Trong tổ hợp này, nếu Thái Âm không Hóa Khoa, thì đây là mệnh rời xa
quê hương, sau khi Hóa Khoa sẽ khiến cho bản chất vốn hiếu động trôi nổi
của hai sao Thiên cơ và Thái âm trở thành ổn định, có thể phát triển ở
bản địa, mà còn tạo lập được danh tiếng. Có điều, nguồn tiền tài vẫn gặp
nhiều sóng gió, trắc trở, ở cung Thân thì tốt hơn.
Thái Âm hóa Khoa làm mạnh thêm sắc thái thích hợp về công việc nội vụ, vì vậy nên làm về ngạch hành chính.
Bất kể là nam mệnh hay nữ mệnh, Thái Âm sau khi Hóa Khoa đều có thể cải thiện tính chất vốn bất lợi ở cung Phu Thê.
Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, chỉ chủ về được
người ta tán thưởng những biểu hiện của bản thân mệnh tạo, quan trọng
nhất là nắm bắt được cơ hội để phát vượt lên.
Thái Âm độc tọa thủ Mệnh hóa Khoa ở hai cung Mão hoặc Dậu, đối nhau
với Thiên Đồng; tam phương tương hội với Thái Dương độc tọa ở cung Tài
bạch, và Thiên Lương độc tọa ở cung Sự nghiệp. Kết cấu tinh hệ này, "tam
phương tứ chính" đều gặp Sát tinh.
Thái Âm hóa Khoa ở cung Mão không bằng ở cung Dậu, vì ở cung Mão thì
lạc hãm, và không thành cục "phản bối" (không gặp sao Lộc, Thái dương ở
cung Hợi lại đồng độ với Đà la). Cho nên Thái Âm hóa Khoa ở cung Dậu dễ
được người ta trọng dụng, còn ở cung Mão thì trở thành tự sùng bái cá
nhân mình.
Tinh hệ có một ưu điểm, bất kể ở cung Mão hay ở cung Dậu, đều chủ về
làm tăng phong thái của mệnh tạo, có phong cách cá nhân đặc biệt. Nhưng ở
thời hiện đại, nhóm sao này, lại thường có khuynh hướng "đồng tính
luyến ái", khi Thái Âm hóa Khoa sẽ làm tăng lực hấp dẫn càng mạnh thêm.
Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, chỉ chủ về tâm tình vui vẻ.
Thái Âm độc tọa thủ Mệnh hóa Khoa ở hai cung Thìn hoặc Tuất (ở cung
Thìn còn gặp Lộc tồn), gặp Thái Dương ở đối cung độc tọa; tam phương
tương hội với Thiên Cơ độc tọa ở cung Tài bạch, và "Thiên đồng Thiên
lương" ở cung Sự nghiệp.
Thái Âm nếu không hóa Khoa, thì ở cung Tuất ưu hơn ở cung Thìn. Nhưng
sau khi Hóa Khoa có thể chủ về nắm quyền về hình pháp, quân đội hay
cảnh sát, ở cung Tuất vẫn tốt hơn.
Thái Âm hóa Khoa ở cung Tuất thì cung Di là Thái dương ở cung Thìn,
hội Lộc tồn và chia ra một sao Hóa Quyền một sao Hóa Khoa, kết cấu này
vận trình sáng sủa hơn xa Thái Âm ở cung Thìn, vì vậy nên rời xa quê
hương để phát triển chủ về dễ được quý hiển. Đây là sự khác biệt rất
quan trọng giữa hai cung Thìn và Tuất.
Nhưng bất kể trong tình huống nào, Thái Âm ở "thiên la địa võng" đều
ưa Hóa Khoa, có thể đột phá "thiên la địa võng" mà tỏa ánh sáng, dẫn tới
đời người ắt sẽ có biểu hiện tốt, hơn nữa còn có thể cải thiện sự bất
lợi về hôn nhân.
Thái Âm độc tọa thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Tị hoặc Hợi, có Đà la
đồng độ hoặc hội Kình dương Đà la; đối cung với Thiên Cơ, tam phương hội
hợp với "Thái dương Thiên lương" ở cung Sự nghiệp, và mượn "Thiên đồng
Cự môn" nhập cung Tài bạch có Cự môn đồng thời hóa Quyền.
So sánh hai cung, ở cung Tị không bằng ở cung Hợi, Hóa Khoa chỉ hơi
cải thiện khuyết điểm lúc lạc hãm. Ở cung Hợi có thể theo ngành nghề
chuyên về kế hoạch, vạch kế sách, thiết kế, phần nhiều đều có biểu hiện
tốt, cũng thích hợp với kế hoạch tài vụ, có thể thành danh.
Nhưng Thái Âm ở hai cung này đều rất dễ xảy ra đau khổ vì tình, nhất
là nữ mệnh gặp Thái âm thủ Mệnh ở cung Tị, thường thường nỗi đau khổ
trong lòng suốt đời sẽ không thể quên
Ở lưu niên hoặc đại hạn mà gặp tinh hệ này, ở cung Hợi thì có lợi ích thực tế, ở cung Tị thì chỉ được hư danh.
31- Thái Dương - can Giáp hóa thành sao Kị
Lúc Thái Dương và Thái Âm hóa Kị đều có biểu hiện tổn hại các mối
quan hệ nhân tế. Thái Dương chủ về người thân phái nam, Thái Âm chủ về
người thân phái nữ.
Ở một phương diện khác, do Thái Dương chủ về "quý", Thái Âm chủ về
"phú". Cho nên Thái Dương hóa Kị sẽ gây ảnh hưởng đến địa vị, ví dụ như
bất hòa với thượng cấp, bị thượng cấp đè ép. Thái Âm hóa Kị thì ảnh
hưởng đến tài lộc, ví dụ như vì ly hôn mà tổn thất tiền của.
Về phương diện tổn hai nhân tế, biểu hiện cụ thể bao gồm: ly biệt,
bệnh tật mà chết, thị phi, đố kị, cạnh tranh không lành mạnh, hai bên
công kích lẫn nhau, kiện tụng, .v.v ...
Về phương diện sự nghiệp, biểu hiện cụ thể là lo lắng mất ăn mất ngủ và tranh chấp.
Thái Dương ở cung lạc hãm rất ngại hóa thành sao Kị, lúc miếu vượng
thì có tốt hơn. Lấy bất lợi về Cha để làm ví dụ, miếu vượng thì có thể
là "sinh ly", lạc hãm thì có thể chuyển thành "tử biệt", hoặc có hai
dòng Họ (vì cha mất, mẹ có chồng khác).
Do Thái Dương chủ về "quý", cho nên lúc Hóa Kị còn chủ về danh dự bị
tổn hại. Theo quan điểm của cổ nhân, phụ nữ lấy "trinh liệt" làm danh
dự, cho nên Thái Dương hóa Kị thường chủ về bị lừa dối về tình cảm, hoặc
bị kẻ cường bạo cưỡng hiếp.
Thái Dương cũng đại biểu cho sức khỏe của bản thân, khi Hóa Kị thì
sức khỏe không tốt, cần xem xét các tổ hợp tinh hệ mà định tính chất cụ
thể.
Thái Dương hóa Kị ở bản cung là cung độ ít gặp tai nạn nhất, chỉ chủ về
dễ bị người ta áp chế làm cho tâm tình không vui. Nam mệnh cần lưu ý đại
hạn thứ hai, dễ mang lại họa hoạn nhỏ, về sức khỏe nên phòng bệnh tim
mạch và bệnh về mắt.
Thái Dương hóa Kị ở cung Tý là lạc hãm, hóa Kị có tính chất không
tốt, nên giấu bớt tài năng, chọn sách lược thủ thành, hơi lộ sự sắc xảo
lập tức bị trắc trở. Lúc chưa gặp thời cơ nên tự ngầm tu dưỡng (như tự
bồi dưỡng trình độ để có cơ hội thăng chức, chuyển nghề). Về sức khỏe
nên đề phòng bật tật ở mắt, đầu choáng mắt hoa, tuổi già đề phòng bệnh
phủ tạng.
Tinh hệ "Thái dương Thái âm" đồng độ ở cung Sửu, khi gặp Thái Dương
hóa Kị thì đời người lên xuống vô thường, tuổi trẻ ít có duyên với Cha,
ít được thượng cấp quan tâm và đề bạt. Còn ngại có Đà La đồng độ, dễ
biến thành tiêu cực, hoặc chần trừ lần nữa mà làm mất cơ hội. Nếu cung
Phụ mẫu gặp Cát tinh, thì nên đề phòng vì đối với cha mẹ nuông chiều mà
thành ỷ lại.
Tinh hệ "Thái dương Cự môn" đồng độ ở cung Dần, có Lộc tồn đồng cung,
lúc Thái Dương hóa Kị chủ về đời người gặp nhiều điều tiếng thị phi,
thích hợp với những nghề "dùng lời nói để kiếm tiền", cũng là Đạo "xu
cát tị hung" vậy. Cuộc đời sau khi trải quan nhiều trắc trở mới ổn định,
hơn nữa còn bị một trận tai nạn nghiêm trọng, và không có duyên với cha
mẹ.
Tinh hệ "Thái Dương Thiên lương" ở cung Mão, có Kình dương đồng độ,
lúc Thái Dương hóa Kị là "biến cảnh", chủ về tuổi trẻ phải trải qua gian
nan trắc trở mới thành hữu dụng, nhưng vẫn không có duyên với cha mẹ. Ở
lưu niên hay đại hạn mà gặp "biến cảnh" lại có lợi về cạnh tranh, có
thể thắng lợi vào lúc cuối.
Thái Dương hóa thành sao Kị ở cung Thìn, là rơi vào "Thiên la Địa
võng", chủ về có khoảng ngăn cách giữa hai đời rất sau nặng, mà mệnh tạo
còn phải tự lập không được Cha Mẹ che trở. Lúc trẻ còn gặp thêm Văn
xương Văn Khúc hóa thành sao Kị ở lưu niên hay đại hạn, thường thường
chủ về bỏ dở việc học hành.
Thái Dương hóa Kị ở cung Tị, gặp Đà la, cũng chủ về dùng "lời nói để kiếm tiền".
Thái Dương hóa Kị ở cung Ngọ, bất lợi đối với Cha, phần nhiều là
"sinh ly" hay "tử biệt", còn khó được cấp trên tin tưởng đề bạt. Ngoài
ra còn chủ về nội tâm tróng rỗng, dễ đau khổ về tình cảm. Sự nghiệp lớn
lao nhưng trống rỗng. Theo đạo "tìm cát tránh hung" là phải phát triển
một cách thiết thực, không được khoa trương, nhất là lúc đến đại hạn
hoặc lưu niên có Thái Dương song hóa Kị, thường dễ bị thất bại. Về sức
khỏe thì nên đề phòng bệnh tật ở mắt, huyết áp cao, tắc nghẽn mạch máu
(vascular thrombosis), trúng phong.
Tinh hệ "Thái dương Thái âm" đồng độ ở cung Mùi, có Kình dương Đà la
giao hội, mà Thái âm lạc hãm còn Thái Dương thì lại hóa Kị, kết cấu này
ít duyên phận với cha mẹ, gặp thêm Hỏa tinh Linh tinh thì dễ bị cha mẹ
bỏ rơi. Nữ mệnh chủ về trưởng tử yểu mạng, hoặc sinh không đủ tháng, vợ
chồng gặp nhau ít mà xa nhau nhiều. Thái Dương hóa Kị ở cung này, còn
chủ về quan hệ giao tế phần nhiều không được như ý, cần phải tự tìm lối
đi, không được sinh tâm lý ỷ lại.
Tinh hệ "Thái dương Cự môn" đồng độ ở cung Thân, có Lộc tồn vây
chiếu, mà Thái Dương hóa Kị, chủ về hôn nhân bất lợi, cũng bất lợi về
đời sống tình cảm. Nữ mệnh càng dễ bị đàn ông gây phiền lụy, nên kết hôn
với người ở nơi xa hay người ngoại quốc. Về phương diện sự nghiệp có
oán trách rất lớn, cho dù theo những nghề "dùng lời nói để kiếm tiền"
cũng gặp nhiều thị phi rắc rối không thể tự giải quyết, mức độ ảnh mang
tính cộng đồng xã hội.
Tinh hệ "Thái dương Thiên lương" ở cung Dậu, mà Thái Dương hóa Kị,
chủ về rất chủ quan và thiếu nguyên tắc, tuy có Thiên Lương hóa giải,
cũng dễ vì tính chủ quan mà gây nên rắc rối rất phiền phức. Theo đạo
"tìm cát tránh hung" thì nên theo nghiên cứu học thuật đối với bộ môn ít
được chú ý, hoặc những nghề mà ít người làm, thì có thể thuận lợi toại ý
hơn.
Thái Dương hóa Kị ở cung Tuất là cung độ rất yếu, lúc còn nhỏ có thể
"sinh ly" hay "tử biệt" với cha, đường đời nhiều gập gềnh, thường hay
bất đắc trí. Về sức khỏe nên phòng bệnh tiểu đường, bệnh tim mạch, bệnh
về mắt.
Thái Dương hóa Kị ở cung Hợi chủ về không có duyên với cha mẹ, trước
30 tuổi cuộc đời nhiều chìm nổi, sau 30 tuổi mới phát vượt lên, thường
thường có thể tay trắng làm lên. Về sức khỏe dễ mắc bệnh ở mắt và ở
khoang miệng. Nữ mệnh không nên lấy chồng trong giới kinh doanh làm ăn,
nếu không chồng dễ thay đổi tình cảm.
32- Thái Âm - can ẤT hóa thành sao Kị
Thái Âm hóa Kị, ý nghĩa phổ biến nhất là bất lợi đối với người thân phái nữ, nhất là ở cung vị lạc hãm thì càng đúng.
Nói "bất lợi" ở đây, không nhất định là bệnh tật hay tử vong, có lúc
chỉ biểu hiện là thiếu duyên phận với nhau, hai bên khó thông cảm cho
nhau, hoặc vì hoàn cảnh khách quan mà hai bên ít có cơ hội gặp nhau. Cần
phải xem xét kỹ các sao Sát - Hình - Kị hội hợp thực tế mà định.
Gặp Thái Âm hóa Kị, cũng biểu trưng cho tình huống rắc rối về tình
cảm, thường chủ về trong lòng có ẩn tình khó sử. Nếu gặp thêm Hỏa tinh,
Linh tinh, Văn xương, Văn khúc, thì đây là điềm tượng tình yêu không
bình thường, nam mệnh phần nhiều chủ về có khuynh hướng "đồng tính luyến
ái".
Thái Âm hóa Kị ở cung miếu vượng, thì ảnh hưởng đến tình hình lợi
lộc, thường thường biểu hiện là trong đời người có một thời kỳ cảm thấy
mình rất có tài mà không gặp thời. Nếu Thái âm hóa Kị ở cung lạc hãm,
thì đây là điềm tượng không tốt; trái lại, sẽ ưa gặp Sát tinh "kích
thích", chủ về có thể theo ngành công nghệ. Cổ nhân gọi là "thợ", nhưng ở
thời hiện đại, cũng chủ về những ngành khoa học kỹ thuật.
Thái Âm hóa thành sao Kị ở cung Tý, đồng độ với Thiên Đồng. Đối với
nữ mệnh thì rất ưa trang điểm, chải chuốt, làm đẹp, nhưng tính cách điệu
nghệ thuật không cao, thường dễ bị người ta phê bình cách thức trang
điểm của bản thân đương số.
Đối với nam mệnh thì có nội tài, dễ được người khác giới để mắt,
nhưng lại thiếu duyên phận. Về hôn nhân, nam mệnh và nữ mệnh đều nên nhờ
người giới thiệu, và nên kết hôn muộn, nếu không sẽ chủ về duyên phận
không đủ.
Khi gặp hoặc Văn xương, hoặc Văn khúc, thì thường là văn sỹ nghèo nàn, thất chí, nhưng cũng có chút thanh danh.
Về sức khỏe phần nhiều chủ về bệnh ở mắt, như bệnh nốt ruồi bay, nếu có thêm các sao Sát Hình nặng, thì có thể bị mù.
Thái Âm hóa Kị ở cung Sửu, là Thái âm và Thái dương đồng cung. Vì
Thái Âm hóa Kị nên gây lụy cho Thái Dương, khiến tăng thêm vất vả khổ
lụy, và không có duyên với cha mẹ.
Cuộc đời và sự nghiệp có tính lưu động khá lớn, dễ thay đổi nghề, mà
nghề thường thường cũng là loại "lao tâm tổn thần", cũng chủ về có lúc
cuộc sống dễ chịu thì lại không có tinh thần làm việc, làm ảnh hưởng đến
sự phát triển của sự nghiệp.
Thái Âm hóa Kị ở cung Dần, là "Thiên cơ Thái âm" đồng độ với Đà la,
Thiên cơ đồng thời hóa Lộc. Nếu gặp thêm Hỏa tinh, Linh tinh, thì tình
hình tiền bạc trong tương lai khá nghiêm trọng. Tham khảo thêm ở đoạn
thuật "Thiên cơ hóa Lộc".
Thái Âm hóa Kị ở cung Mão, khá bất lợi về hôn nhân, tình hình dễ xuất
hiện nhất là vợ chồng gặp nhau ít mà xa nhau nhiều, nhất là đối với nữ
mệnh, nên kết hôn muộn. Nam mệnh thì phần nhiều sự nghiệp chìm nổi thất
thường, chỉ thích hợp làm công hưởng lương, không thích hợp tự kinh
doanh làm ăn, tự kinh doanh làm ăn sẽ dễ xảy ra trắc trở và thất bại.
Thái Âm rất ngại hóa Kị ở cung Thìn, hội Sát tinh, cần phải rời xa
quê hương để phát triển, nếu ở bản địa sẽ gặp nhiều áp lực. Nếu có các
sao Sát - Hình đồng độ, thì có lợi khi rời xa quê hương có thể làm những
ngành nghê thủ công để mưu sinh, ở thời hiện đại có thể làm những nghề
về khoa học kỹ thuật. Nam mệnh và nữ mệnh, hôn nhân đều bất lợi, nên kết
hôn muộn.
Thái Âm hóa Kị ở cung Tị, cũng nên chủ động rời khỏi quê hương để
phát triển. Cung Di là Thiên cơ hóa Lộc hội Thiên mã, là cách "Lộc Mã
giao trì", nếu xuất ngoại ắt sẽ sáng sủa phát đạt.
Bất kể nam mệnh hay nữ mệnh, an Mệnh tại cung Tị này đều bất lợi đối
với người thân phái nữ. Cho nên nam mệnh hôn nhân không tốt đẹp, thường
thường phải tái hôn mới sống đến bạc đầu.
Tinh hệ "Thái âm Thiên đồng" đồng độ ở cung Ngọ, mà Thái Âm hóa Kị,
cần phải xem xét tình hình của tinh hệ hội hợp mà định. Nếu có Hỏa tinh,
Linh tinh đồng độ, sẽ chủ về rời xa quê hương, hoặc chủ về "song trùng
phụ mẫu".
Thái Âm hóa thành sao Kị ở bản cung, thường thường bị ảnh hưởng về sự
nghiệp, chủ về có biên độ lên xuống thất thường rất lớn, vì vậy nên làm
những công việc có tính thiết thực, cũng chủ về có khuynh hướng "đồng
tính luyến ái" như Thái Âm hóa Kị ở cung Tý.
"Thái Âm đồng cung với Thái Dương" ở cung Mùi, mà Thái Âm hóa Kị, còn
Thái dương cũng bắt đầu ngả về chiều, cho nên bất lợi đối với cha mẹ,
bất lợi nhất là người thân phái nữ. Nếu Sát tinh quá nặng, cũng chủ về
Mẹ sống cảnh góa bụa.
Người có tinh hệ này thủ Mệnh, bất kể nam mệnh hay nữ mệnh, thường
thường đều có tính bên ngoài thì "cương" mà bên trong thì "nhu", cho nên
phần nhiều đều gặp trắc trở về sự nghiệp và tình cảm (ngược lại: ngoại
nhu nội cương ?).
"Thái âm Thiên cơ" đồng độ ở cung Thân, mà Thái Âm hóa Kị, cũng có
tình hình "cọp mà ăn thức ăn của mèo". Tham khảo thêm ở đoạn thuật
"Thiên Cơ hóa Lộc".
Thái Âm hóa Kị ở cung Dậu, nữ mệnh rất bất lợi về tình cảm, thường
chủ về làm "nhị phòng" hay "kế thất", nếu không khó có thể sống với nhau
đến bạc đầu. Đối với nam mệnh chủ về lang bạt tha hương rồi mới tay
trắng làm nên, nhưng vẫn chủ về "danh" lớn hơn "lợi", mức độ thu nhập
tăng theo địa vị xã hội, và không thích hợp tự kinh doanh làm ăn. Dễ
được phái nữ yêu thích, nên cũng gặp nhiều rắc rối khó xử về tình cảm,
do vậy lãng phí rất nhiều thời gian của đời người.
Thái Âm hóa Kị ở cung Tuất, không có ảnh hưởng xấu, Thái Dương ở Thìn
đối cung là ánh sáng đang hiển lộ, Thái Âm đối nhau ở xa xa, là cách ưu
mỹ. Nên Thái Âm hóa Kị chỉ chủ về thiếu phúc ấm của cha mẹ, nhưng lại
biểu trưng cho "tay trắng làm nên".
Thái Âm rất ưa hóa Kị ở cung Hợi, là "biến cảnh". Thái Âm lúc này tỏa
sáng, khi Hóa Kị chỉ chủ về đời người phải trải qua một giai đoạn đau
khổ, nhờ vào đó mà thành tựu được sự nghiệp.
Nhưng "tam phương tứ chính" có các sao hội hợp phần nhiều có tính
"lưu động", cho nên bất kể là nam mệnh hay nữ mệnh, đều chủ về dễ gặp
rắc rối khó xử về tình cảm, thường vì có khuynh hướng yêu đương lãng mạn
(nên gia đình khó tránh khỏi sứt mẻ hay đổ vỡ).
33- Liêm Trinh - can Bính hóa thành sao Kị
Trong Đẩu Số, Liêm Trinh hóa thành sao Kị là sao có sức ảnh hưởng khá lớn, tính chất khi hóa Kị cũng khá phức tạp.
Liêm Trinh hóa Kị, chủ về biểu trưng cho tình cảm trắc trở, bao gồm
tình cảm đối với lục thân và tình cảm nam nữ. Hơn nữa, nói "trắc trở" là
do Liêm Trinh khi hóa Kị thường có tính chất ảnh hưởng lâu dài và không
gì hóa giải được.
Đồng thời, Liêm Trinh hóa Kị còn biểu trưng cho tâm trạng "đau buồn",
nếu gặp các sao "khoa văn" thì đây là nỗi đau buồn có tính văn hóa tư
tưởng, thường diễn hóa ở mức độ thâm sâu. Nhưng lúc có Sát tinh cùng bay
đến, thì trở thành là không đắc ý về tư tưởng nhân sinh.
Do tính chất diễn hóa đã thuật ở trên, nên Liêm trinh hóa Kị còn là
điềm tượng bị lừa dối, đặc biệt là khi bị "lục thân lừa dối", cho nên
nói Liêm Trinh hóa Kị biểu trưng cho tình cảm trắc trở. Trong đó tinh hệ
"Liêm trinh Thiên tướng" đối nhau với Phá quân ở hai cung Tý hoặc Ngọ,
mà Liêm Trinh hóa Kị thì chủ về tình cảm trắc trở càng lớn. Lúc gặp thêm
các sao Sát - Hình tụ tập, có thể có khuynh hướng tự sát.
Mở rộng tính chất về tình cảm trắc trở, lại thường bị "làm ơn mắc
oán", hoặc do bản thân không tự lượng sức mình khiến cho lòng tự tôn bị
tổn thương.
Một tính chất quan trong khác của Liêm Trinh hóa Kị là: bệnh tật có
liên quan đến máu, còn chủ về vì tai nạn bất ngờ hay do phẫu thuật mà
gây ra chảy máu. Ở nữ mệnh là biểu trưng vào lúc mang thai hoặc vào lúc
sinh con. Ở cung Tật Ách thì biểu trưng cho bệnh về máu hoặc bệnh về
tính dục.
"Liêm trinh Thiên tướng" đồng độ ở hai cung Tý hoặc Ngọ, mà Liêm
Trinh hóa Kị, đồng độ với Kình dương, hoặc hội với Kình Dương Đà la, đối
cung là Phá Quân, tam phương tương hội với "Tử vi Thiên phủ" và Vũ khúc
độc tọa.
Liêm Trinh hóa thành sao Kị ở tinh hệ này chủ về trắc trở và bị người
ta kiềm chế, tuyệt đối không nên cố tự xuất đầu lộ diện, nếu không ắt
sẽ tổn thất hoặc phá tán, thất bại. Rất ngại có Hỏa tinh đồng độ, chủ về
tình cảm bị trắc trở nghiêm trọng mà nảy sinh ý định tự sát. Có lúc
cũng vì bản thân sai lầm mà gây hậu quả trọng đại. Đặc biệt không nên
hợp tác với người khác.
Nhưng tinh hệ này lại chủ về có được nguồn tiền tài toại ý. Đại khái
là, không những có thể kiếm tiền mà còn có thể tích lũy. Cho nên, người
gặp tinh hệ này, rất nên chọn sách lược thủ thành, không thể quá gấp
cầu thành công, đồng thời cần phải biết mức độ nặng nhẹ nhiều ít của cá
tính "tự ái", thì mới có thể duy trì thành tựu đã đạt được. Có thể vì
tính "tự ái" không đúng lúc đúng chỗ, mà biến thành "hợp lực" đạp đổ kết
quả thành tựu đã đạt được.
"Liêm trinh Thất sát" đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi (ở cung Sửu gặp
Lộc tồn), mà Liêm Trinh hóa Kị, tứ chính đối nhau với Thiên Phủ, tam
phương hội hợp với "Tử vi Tham lang" và "Vũ khúc Phá quân".
Do Liêm Trinh hóa thành sao Kị, nên "Liêm trinh Thất sát" ở cung Mùi
không thành cách "Hùng tú Kiền nguyên", vì vậy ở cung Sửu là tốt hơn,
đời người khá thuận lợi toại ý.
Cũng do Liêm Trinh hóa Kị, nên "Liêm trinh Thất sát" ở hai cung độ
này không thích hợp theo võ nghiệp, nếu theo võ nghiệp e rằng bất trắc.
Tinh hệ này rất kị các sao Sát - Hình, chủ về đời người gặp nhiều gian
khổ, rất thích hợp trong lĩnh vực sản xuất, làm việc hưởng lương, nếu tự
kinh doanh làm ăn thì sẽ sinh phá tán thất bại.
Tinh hệ này cũng chủ về tính "giao du thù tạc", thường chịu lãng phí
tiêu tiền và lãng phí thời gian về phương diện này, nhưng sự lãng phí
này không mang lại hiệu quả gì như dự liệu. Phần nhiều tốn tiền chỉ do
ưa thích, ví dụ như mua sắp quần áo thời trang không cần thiết, đây là
đặc điểm của tinh hệ này.
Liêm Trinh độc tọa, Hóa Kị ở hai cung Dần hoặc Thân, gặp Kình dương
hoặc Đà la, tứ chính là Tham lang ở đối cung, tam phương hội hợp là "Vũ
khúc Thiên phủ" và "Tử vi Thiên tướng".
Do Liêm Trinh hóa Kị, nên Liêm Trinh của cung Thân cũng không thành cách "Hùng tú Kiền nguyên".
Tinh hệ của bản cung có sắc thái "ưu uất", nhưng trưng diện khá sa
hoa, thường ứng xử vui vẻ lấy tiền bạc giúp bạn bè, mà không xem trọng
việc tích lũy tiền bạc cho gia đình, vì vậy bị người phối ngẫu oán
trách.
Bất lợi về hôn nhân, tính cách của người phối ngẫu không hợp với bản
thân mệnh tạo, trong cuộc đời dễ nảy sinh tình yêu đối với người đã có
gia thất bất kể là nam hay nữ, có tình mà không có duyên là đặc điểm của
tinh hệ này.
"Liêm trinh Phá quân" đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu (ở cung Dậu gặp
Lộc tồn), mà Liêm Trinh hóa Kị, đối cung là Thiên Tướng, tam phương hội
hợp với "Tử vi Thất sát" và "Vũ khúc Tham lang".
Tinh hệ này có tính chất suy sụp nhanh chóng, ở cung Mão nghiêm trọng
hơn ở cung Dậu. Cho nên đạo "tìm cát tránh hung" là phải xem xét Lưu
niên để tiến thoái hợp thời cơ.
"Liêm trinh Phá quân" ở cung Dậu có Thiên Hình đồng độ, thì nên đề
phòng sự cố giao thông, cũng chủ về gông cùm, hay thú dữ cắn. Cung Thiên
Di mà gặp tinh hệ này lúc đi xa nên phòng xảy ra bất trắc. Xem xét các
sao của Lưu niên để định tình hình cụ thể, mức độ nặng nhẹ.
Tinh hệ này còn có một sắc thái đặc biệt khác, đó là cuộc đời ắt có
một thời kỳ tiền bạc qua tay rất nhiều, nhưng khi vận thế qua rồi thì
lại buồn rầu lo lắng vì túng thiếu. Do đó nhân sinh quan có ảnh hưởng
rất lớn đối với vận mệnh.
"Liêm trinh Thiên phủ" đồng độ ở hai cung Thìn hoặc Tuất, Liêm trinh
hóa Kị ắt sẽ có Đà La đồng độ, hoặc Kình dương Đà la hội chiếu, đối cung
là Thất sát, tam phương tương hội với Tử vi độc tọa và "Vũ khúc Thiên
tướng".
Liêm Trinh hóa Kị ở 12 cung, hai cung Thìn và Tuất là khá tốt, vì Hóa
Kị trong "Thiên là Địa võng" sẽ chủ về làm tăng ý chí phấn đấu, tuy
cuộc đời thành bại bất nhất, nhưng tâm cảnh vẫn giữ được sự cởi mở, tốt
nhất là ở cung Tuất, thường dễ vượt hơn nhiều người.
Do đối cung là Thất Sát, nên cũng phải đề phòng sự cố giao thông.
Tinh hệ này bất lợi về tình cảm, vợ chồng tính cách không hợp nhau,
nên phần nhiều có ngoại tình, nhưng không dễ vợ chồng nói lời chia tay.
"Liêm trinh Tham lang" đồng độ ở hai cung Tị hoặc Hợi, Liêm trinh hóa
Kị ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, tam phương tương hội "Tử vi
Phá quân" và "Vũ khúc Thất sát".
Tinh hệ này có sắc thái ưu uất rất nặng, nếu không gặp thêm các sao
"văn" nhuyễn hóa trở thành có tính văn nghệ, thì cuộc đời phần nhiều sẽ
tự đi tìm sự phiền phức, nhất là rắc rối về tình cảm, mệnh tạo thường
lấy đau khổ làm niềm vui, thường ảo tưởng bắt chước phong cách của người
phi thường. Có thêm Địa không Địa kiếp thì càng nặng.
Sắc thái đặc biệt của tinh hệ này là không có khả năng quản lý tài
chính một cách hiệu quả, do đó thường có hiện tượng tiền vào tay trái
rồi ra bằng tay phải.
Trong số các tinh hệ Liêm Trinh, thì tinh hệ này (Liêm Tham) mang sắc
thái bôn ba phiêu bạt nhất. Cho nên không thích hợp với nữ mệnh, đời
người quá nhiều sương gió, không ổn định.
34- Cự Môn - can Đinh hóa thành sao Kị
Cự Môn không ưa hóa thành sao Kị, vì vốn đã có tính chất "điều tiếng
thị phi". Sau khi Hóa Kị càng làm mạnh thêm tính chất này, khiến cho một
đời người thêm nhiều rắc rối trắc trở.
Cự Môn sau khi Hóa Kị, cũng ảnh hưởng đến phương diện tình cảm,
thường dễ xảy ra rắc rối phiền phức liên tiếp mà không thể đoán trước
được. Cho nên người Cự Môn hóa Kị tại Mệnh, bất kể các sao của cung Phu
Thê có hoàn mỹ đến đâu, ít nhất cũng có một lần gãy đổ trong tình yêu
hoặc hôn nhân, tất nhiêu sau đó để lại vết thương lòng suốt đời khó
quên.
Thích cầu toàn cầu mỹ, nhưng bất kể đã nỗ lực như thế nào, sự nghiệp
phát triển cũng không như lý tưởng hằng mong ước. Nhưng mệnh tạo lại
chấp trước sự toàn mỹ, vì vậy sinh ra sự thất vọng bất mãn. Hơn nữa
trong quá trình sự kiện phát triển, thì mệnh tạo thường trong tình cảnh
rất đau đớn khổ sở và vất vả. Lúc có Đà la đồng độ, khuynh hướng này
càng bộc lộ rõ hơn.
Cự Môn hóa Kị ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung là Thiên Cơ hóa Khoa,
ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vậy chiếu, tam phương tương hội với Thái
Dương độc tọa và mượn "Thiên đồng Thiên lương" mà Thiên Đồng hóa Quyền.
Cự Môn hóa Kị trong tinh hệ này, có một đặc điểm là thường nhờ "hung
sự" mà biến thành lực "kích phát". Sự cố trắc trở đang trong quá trình
phát triển thì bỗng nhiên ngưng lại, nhưng mỗi lần gặp trắc trở như vậy,
thực ra lại khiến cho kết cục được hoàn thiện và hoàn mỹ hơn. "Thấy
hung nhưng thực ra là cát" là một đặc điểm của tinh hệ này.
Mệnh cục này bất lợi về hôn nhân, tuy giao du với nhiều người khác
giới nhưng tình cảm vẫn duy trì lâu dài, hoặc lúc tình cảm trở thành sâu
đậm thì bỗng nhiên xảy ra biến cố, dẫn đến chia ly.
Ở cung Ngọ dễ chuốc điều tiếng thị phi hơn ở cung Tý, nhưng lại thành sức mạnh "kích phát".
"Thiên đồng Cự môn" đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, Cự môn hóa Kị
thì Thiên đồng ắt sẽ hóa Quyền. tham khảo ở đoạn thuật "Thiên đồng hóa
Quyền".
"Thái dương Cự môn" đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân (ở cung Dần gặp
Lộc tồn), Cự môn hóa Kị, tam phương mượn "Thiên cơ Thiên lương" mà Thiên
cơ hóa Khoa, và mượn "Thái âm Thiên đồng" trong đó một sao hóa Lộc một
sao hóa Quyền.
Tinh hệ này thành cách "Tứ Hóa hội hợp", nhưng do Cự Môn của bản cung
hóa Kị nên rất bất lợi về quan hệ nhân tế. Thông thường bất lợi đối với
người thân phái nam, cho nên không thích hợp với nữ mệnh đến tuổi trung
niên không có duyên với chồng, đến tuổi vãn niên thì có khoảng cách đối
với con cái. Bất kể nam mệnh hay nữ mệnh đều chủ về thiếu duyên với
Cha, hoặc dễ xung đột với thượng cấp.
Do tính chất "điều tiếng thị phi", nên rất thích hợp với những nghề
"dùng lời nói để kiếm tiền", như luật sư, dạy học, .v.v ... nhờ có "Lộc
Quyền Khoa hội" có thể thăng tiến danh dự và tài lộc.
"Thiên cơ Cự môn" đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Cự Môn hóa Kị
ắt Thiên cơ hóa Khoa. tham khảo ở mục "Thiên cơ hóa Khoa".
Cự Môn độc tọa, Hóa Kị ở hai cung Thìn hoặc Tuất (ở cung Tuất ắt sẽ
gặp Lộc tồn), Thiên Đồng của đối cung hóa Quyền, tam phương tương hội
với Thái dương độc tọa và mượn "Thiên cơ Thái âm" mà Thái âm hóa Lộc còn
Thiên cơ hóa Khoa.
Cự Môn hóa Kị ở "Thiên la Địa võng" lại chủ về cát lợi, tính chất
"thấy hung mà thực ra là cát" rất rõ ràng. Cho nên bề ngoài tuy gặp trắc
trở, rắc rối, thị phi, nhưng kết cục lại khiến cho người ta bất ngờ, có
điều vẫn khó tránh khỏi phải trải qua gian khổ, tâm tư nhiều lo nghĩ.
Nếu gặp thêm Hỏa tinh, Linh tinh, hoặc Địa không Địa Kiếp đồng độ,
thì rất thích hợp "dùng lời nói để kiếm tiền". Có điều mệnh tạo lại ưa
giải quyết khó khăn giúp cho người khác, nên sự nghiệp tuy ổn định có
chiều hướng tốt nhưng cuộc đời lại khó được yên tịnh.
Hôn nhân cũng chủ về mỹ mãn, bất kể là nam mệnh hay nữ mệnh, đều nên lấy người có sự nghiệp.
Cự Môn độc tọa hóa Kị ở hai cung Tị hoặc Hợi, đối nhau với Thái
dương, ắt sẽ gặp Kình dương Đà la, hoặc đồng độ với Đà La, tam phương
tương hội với Thiên Đồng độc tọa hóa Quyền và Thiên Cơ độc tọa hóa Khoa.
Thông thường tinh hệ này ảnh hưởng đến lục thân ở mức độ nhẹ, khi Cự
môn hóa Kị ở cung Hợi càng nhẹ hơn. Nhưng tình trạng điều tiếng thị phi,
sóng gió trắc trở trong tình cảm thì khá nặng.
Nam mệnh ắt lấy được vợ đẹp, nữ mệnh ắt lấy được chồng có sự nghiệp
tốt. Bàng nhân thiên hạ nhìn bề ngoài đều cho rằng họ đẹp đôi, nhưng bên
trong họ lại bất mãn với người phối ngẫu, sau trung niên thường thay
lòng đổi dạ, khiến cho mọi người đều ngạc nhiên.
35- Thiên Cơ - can Mậu hóa thành sao Kị
Thiên Cơ vốn có tính linh động, sau khi hóa Kị sức linh động giảm
bớt, chủ về gặp chướng ngại, hoặc vì một số nhân tố khách quan và chủ
quan, dẫn đến mất cơ hội tốt.
Thiên Cơ có tính chất kế hoạch, sau khi Hóa Kị sẽ biến thành kế hoạch sai lầm.
Thiên Cơ vốn có tính chất suy nghĩ, sau khi Hóa Kị thì biến thành lo
toan nghĩ ngợi, thậm chí thành ra lo lắng. Vì vậy lúc Thiên Cơ hóa Kị ở
cung Tật Ách, có đặc trưng mất ngủ, suy nhược thần kinh, "Can vị bất
hòa", "Tâm Thận bất giao", tình hình nghiêm trọng là "trúng phong".
Lúc Thiên Cơ hóa Kị có Sát tinh đồng độ, đặc biệt dễ mắc bệnh mang
tính thần kinh, như co dật thần kinh mặt, kinh phong, .v.v ...
Đối với nữ mệnh, Thiên Cơ hóa Kị phần nhiều chủ về vì tâm trạng xung động nhất thời mà xa chân lỡ bước.
Thiên Cơ hóa Kị còn biểu trưng cho sự cố bị người ta phỉ báng, nói
xấu, bêu rếu, hai bên công kích lẫn nhau, cạnh tranh không lành mạnh,
nếu mệnh tạo "hao thần tổn khí" quyết đối phó, thì càng khiến sóng gió
dễ nổi lên, tốt nhất nên "dĩ bất biến ứng vạn biến" thì tự nhiên sóng
yên biển lặng.
Thiên Cơ độc tọa hóa Kị ở hai cung Tý hoặc Ngọ (ở cung Tý thì bị Kình
dương Đà la chiếu xạ, ở cung Ngọ thì đồng độ với Kình dương), tứ chính
đối cung là Cự Môn độc tọa, tam phương tương hội với "Thiên đồng Thiên
lương" và Thái Âm độc tọa hóa Quyền.
Tổ hợp tinh hệ của hai cung này, chủ về cách suy nghĩ của mệnh tạo
khó giải quyết vấn đề, một sự cố đơn giản có thể biến thành cục diện
phức tạp, vì vậy mà kế hoạch sai lầm. Do tính chất này, còn có thể mở
rộng thành tình trạng "không có việc gì đáng mà cứ phải bôn ba bận rộn",
hoặc làm việc không có phương pháp, thiếu mạch lạc, lớp lang.
Thương thường, khi Thiên Cơ hóa Kị còn biểu trưng cho là "kinh sợ",
hoặc bị uy hiếp, trong thương trường thì đột nhiên bị cạnh tranh không
lành mạnh, trong chính giới thì hai bên công kích lẫn nhau.
Lúc có các sao Sát - Hình cùng chiếu, chủ về điềm tượng di chứng của
bệnh tật, như bán thân bất toại, tứ chi tổn thương tàn tật. Ở cung Ngọ
nặng hơn ở cung Tý.
Thiên Cơ độc tọa, Hóa Kị ở hai cung Sửu hoặc Mùi (ở cung Sửu thì gặp
Lộc tồn), đối cung là Thiên Lương, tam phương hội hợp với Thiên Đồng đọc
tọa và Cự Môn độc tọa.
Do đối nhau với Thiên Lương, nên tinh hệ này chủ về tình trạng gặp
rắc rối, phiền phức, tuy nhiên cuối cùng cũng hóa giải được, nhưng phải
hao tổn tinh thần rất nhiều.
Liên quan đến sự cố phiền phức đột nhiên xuất hiện, thường thường có
liên quan đến việc vạch kế hoạch sai lầm, vì vậy nội tâm càng nhiều lo
lắng.
Tinh hệ này còn chủ về những rắc rối khó xử trong tình cảm và hôn
nhân. Nam mệnh thì người phối ngẫu ưa lộ sự sắc sảo, nữ mệnh thì dễ bất
hòa với chồng.
"Thiên cơ Thái âm" đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, Thiên cơ hóa Kị
thì Thái âm hóa Quyền. Tham khảo ở đoạn thuật "Thái âm hóa Quyền".
"Thiên cơ Cự môn" đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu (ở cung Dậu sẽ gặp
Lộc tồn), tam phương hội hợp với Thiên Đồng độc tọa, và mượn "Thái dương
Thái âm" để nhập cung, trong đó Thái Âm hóa Quyền còn Thái Dương hóa
Khoa.
Tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" đồng độ vốn đã có tính chất "phá phách",
khi Thiên Cơ hóa Kị sẽ làm mạnh thêm tính chất "phá phách" này. Do đó
chủ về không theo đuổi một ngành nghề nào chuyên nhất, đứng núi này
trông núi nọ, mệnh tạo thường cảm thấy mình có tài mà không gặp thời.
Tinh hệ này còn chủ về trong quan hệ giao tế, thường hay "nói năng lỡ
lời", mà thường thường bị thất thố vào những lúc quan trọng.
Do "Thiên cơ Cự môn" đồng cung, cho nên thích hợp làm công việc có tính chất "nhờ miệng lưỡi để kiếm tiền".
"Thiên cơ Thiên lương" đồng độ ở hai cung Thìn hoặc Tuất, mà Thiên Cơ
hóa Kị đồng độ với Đà la, hoặc bị Kình dương Đà la hội chiếu, tam
phương hội hợp với "Thiên đồng Thái âm" mà Thái Âm hóa Quyền, và mượn
"Thái dương Cự môn" để nhập cung mà Thái Dương hóa Khoa.
Do có Thái Âm và Thái Dương hóa thành sao Cát hội chiếu, các Sao hội
hợp lại không phải là "vô lực" (Cơ Lương ở cung Thìn thì càng tốt), cho
nên tinh hệ này chủ về Thiên Lương phải hao tổn sức lực để hóa giải
những gì Thiên Cơ hóa Kị gây ra. Biểu trưng cụ thể là có sắc thái "rời
xa người thân", "lưu lạc", "tính hiếu động trôi nổi", "do dự không quyết
đoán", "xử sự sai lầm gây nên sóng gió trắc trở", .v.v ...
Tinh hệ Cơ Lương vốn có năng lực "dự cảm", nhưng sau khi Thiên Cơ hóa
Kị, sẽ rất dễ vì quá "dự cảm" mà biến thành quá lo lắng, dẫn đến quyết
đoán sai lầm, nhất là ở cung Tuất thì càng đúng.
Thiên Cơ độc tọa hóa Kị ở hai cung Tị hoặc Hợi, ắt sẽ có Lộc tồn đồng
độ hoặc vây chiếu, đối cung là Thái Âm hóa Quyền, tam phương hội hợp
với "Thiên đồng Cự môn", và mượn "Thái dương Thiên lương" nhập cung mà
Thái Dương hóa Khoa.
Tinh hệ này thường chủ về "cơ quan dùng lầm", bao gồm sự nghiệp và
tình cảm. Cho nên hễ tâm bình thường mà xử sự, thì không xảy ra sóng
gió, trắc trở. Nếu tâm không bình thường, thì sẽ nổi sóng gió ngoài dự
liệu của mọi người.
Thiên Cơ độc tọa ở cung Hợi còn chủ về hư danh, về tình cảm rất dễ bị quấy nhiễu gây khó khăn.
Ngoài ra tinh hệ này còn chủ về dễ bị uy hiếp, và bị áp lực vô hình.
Nếu Hỏa tinh, Linh tinh đồng độ với Thiên Cơ hóa Kị, thì nên đề phòng
lúc vãn niên sẽ bị "trúng phong".
36- Văn Khúc - can Kỷ hóa Kị
Văn khúc hóa Kị, ý nghĩa cơ bản là thiếu văn hóa, bản chất của Văn khúc vì hóa Kị mà bị trắc trở.
Văn khúc là biểu trưng cho tài ăn nói, Hóa Kị thì nói năng sai lầm.
Văn khúc biểu trưng cho văn thư, hợp đồng. Hóa Kị thì văn thư phạm
sai lầm, do đó mà gây ra phiền phức, thậm chí còn bị tổn thất.
Văn khúc thường thường còn biểu trưng cho người khác giới để mắt, Hóa
Kị thì vì vậy gây ra sóng gió, hoặc gây ra hiểu lầm không cần thiết
trong sinh hoạt tình cảm. Có sát tinh nặng, thì biểu trưng cho là khó
phát triển tình cảm với người khác giới.
Văn khúc là tài nghệ tinh, Hóa Kị thì lại không có liên quan về phương diện tài năng.
Văn khúc là thiên tài ngôn ngữ, Hóa Kị thì tiêu trừ năng khiếu này.
Có sát tinh nặng, thì có thể nói cà răm, nói lắp, có lúc còn làm cho
người khác phê bình chỉ trích.
Văn khúc còn mang sác thái kim tiền, Hóa Kị thì tổn thất tiền bạc.
Cần phải xem xét các sao hội hợp mà định, như thu lầm chi phiếu không có
tiền bảo chứng, hoặc bị lừa, bị hại. Những điều có tính vật chất này,
không có ở Văn Xương hóa Kị.
Văn khúc hóa Kị, còn dễ xảy ra tình huống bị tình cảm và tiền bạc cùng gây lụy.
Văn khúc hóa Kị, còn chủ về dễ rơi vào ảo tưởng, mà còn chấp trước ảo
tưởng, do đó nảy sinh cảm giác có tài mà không gặp thời.
Trên là thuật những nguyên tắc cơ bản, cần xem xét thêm các sao hội hợp mà định tình huống cụ thể.
37- Thiên Đồng - can Canh hóa Kị
Tính chất của Thiên Đồng cơ bản là miêu tả về tâm trạng, cho nên lúc
hóa thành sao Kị, ý nghĩa phổ biến là "tâm trạng không ổn định", nếu
Thiên đồng nhập miếu thì càng đúng, vì vậy không phải là tai vạ.
Thiên Đồng chủ về tay trắng làm nên, ý vị mở rộng là trung niên ắt sẽ
có một khoảng thời gian gian khổ, sau khi Thiên Đồng hóa Kị sẽ làm mạnh
thêm ý vị này. Do đó, thường thường biểu trưng cho tuổi trẻ có gia cảnh
không tệ, đột nhiên mọi thứ thay đổi, thế là phải sống độc lập, trải
qua gian khổ của cuộc đời.
Thiên Đồng còn là sao "tình cảm", sau khi Hóa Kị thường chủ về xảy ra
tình huống rắc rối khó xử về "tình cảm", có tình yêu không bình thường
nên đau khổ vì tình, trong tình cảnh này mệnh tạo thường thường khó tự
động đứng lên, vì vậy mà ảnh hưởng đến sự nghiệp.
Thiên Đồng hóa Kị ở cung lạc hãm, đây là tâm trạng không yên, tinh
thần xuống thấp (suy sụp), do đó không có cách nào chuyên tâm phát triển
sự nghiệp. Thường thường còn biểu trưng cho "Lý tưởng vượt quá hiện
thực", vì vậy mà đời người theo đuổi "lý tưởng" rất lao khổ. Nếu có các
sao Sát - Hình trùng trùng, thì tâm lý bị mất quân bình, trở thành đa
nghi mà chịu nhiều lo lắng.
Thiên Đồng hóa thành sao Kị thường thường biểu trưng cho hội chứng
"suy nhược thần kinh", cũng tức là nói "âm hư", "khí hư" mà cổ nhân đã
nói.
"Thiên đồng Thái âm" đồng độ ở hai cung Tý hoặc Ngọ (ở cung Tý còn
gặp Lộc tồn), Thiên Đồng hóa Kị, tam phương hội hợp với "Thiên cơ Thiên
lương", và mượn "Thái dương Cự môn" để nhập cung mà Thái Dương hóa Lộc.
Thiên Đồng ở cung Tý là cung vượng, ưu hơn ở cung Ngọ, nên không sợ bị Hóa Kị quấy rối.
"Thiên đồng Thái âm" ở cung Ngọ đều bị lạc hãm, khi Thiên Đồng hóa Kị
thường biểu trưng cho lo nghĩ nghi ngờ không có căn cứ, có thể dẫn đến
hội chứng "suy nhược thần kinh", lại còn tự chuốc lấy rắc rối về tình
cảm, dẫn đến xảy ra những phiền phức không cần thiết.
Nữ mệnh chủ về rất ưa phấn son, trang điểm, trải chuốt, nhưng phẩm chất không tốt.
Bất kể là nam mệnh hay nữ mệnh gặp tinh hệ này, đều biểu trưng cho
kiếm tiền không thuận lợi, có lúc còn vì phản ứng quá mẫn cảm mà dẫn đến
những trắc trở không cần thiết, nhưng tài lộc vẫn không lo bị thiếu.
"Thiên đồng Cự môn" đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi (ở cung Mùi thì
đồng độ với Đà la, ở cung Sửu thì bị Kình dương Đà la hội chiếu), Thiên
Đồng hóa Kị, tam phương hội hợp với Thiên Cơ độc tọa, và "Thái dương
Thiên lương" mà Thái Dương hóa Lộc.
Thiên Đồng ở hai cung này là lạc hãm, lúc Hóa Kị rất dễ gây ra sóng
gió, trắc trở, và rắc rối khó xử trong tình cảm, do đó dẫn đến "điều
tiếng thị phi". Còn chủ về dễ mắc chứng viêm đau thần kinh, như thoái
hóa đốt sống làm đau dây thần kinh. Lúc có Hỏa tinh Linh tinh đồng độ là
dễ bị "trúng phong", thậm chí có thể "bán thân bất toại".
Do có tinh hệ "Thái dương Thiên lương" hội hợp, mà Thái Dương hóa
Lộc, vì vậy cũng thích hợp nghiên cứu học thuật. Thiên Đồng hóa Kị càng
biểu trưng cho tâm tư lo nghĩ lúc nghiên cứu, nhưng vẫn cần chú ý sức
khỏe.
"Thiên đồng Thiên lương" đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thiên
đồng hóa Kị ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, tam phương hội hợp
với thái âm độc tọa và Thiên Cơ độc tọa.
Nếu không có Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp đồng độ, sẽ chủ
về mệnh tạo tay trắng kiếm tiền, nhưng phải hao tổn tinh thần. Nếu có
Sát tinh, thì biểu trưng cho tâm trạng không yên một nghề, không chuyên
nhất theo một ngành nghề mà thường thay đổi. Vì vậy mà ảnh hưởng đến sự
ổn định của cuộc sống.
Đặc biệt là lúc có Địa không, Địa kiếp đồng độ, không ai hiểu được tư
tưởng của mệnh tạo, do đó xử sự không hòa hợp. Thiên đồng ở cung Thân
là cung vượng, tốt hơn ở cung Dần.
Thiên Đồng độc tọa hóa Kị ở hai cung Mão hoặc Dậu (ở cung Dậu thì
đồng độ với Kình dương, ở cung Mão thì bị Kinh dương Đà la chiếu xạ),
đối cung là Thái Âm độc tọa, tam phương hội hợp với Cự môn độc tọa và
Thiên Cơ độc tọa.
Đây cũng là tinh hệ nhiều lo nghĩ, nghi ngờ, nên cũng chủ về có
khuynh hướng "suy nhược thần kinh". Kiếm tiền phải hao tổn tinh thần, sự
nghiệp nhiều biến động thay đổi, là đặc điểm của tinh hệ này.
Ngoài ta, tinh hệ này còn dễ chuốc "đố kị", "điều tiếng thị phi",
thường thường là do mệnh tạo cố tránh "điều tiếng thị phi" mà ra, đúng
với câu nói "càng sợ thì càng gặp nhiều". Nhưng Thiên Đồng ở cung Mão là
nhập miếu, chỉ chủ về có tâm trạng không ổn định, ưu hơn ở cung Dậu.
Thiên Đồng độc tọa hóa Kị ở hai cung Thìn hoặc Tuất (ở cung Thìn được
hội Lộc tồn), đối cung là Cự Môn, tam phương hội hợp với Thiên Lương
độc tọa và "Thái âm Thiên cơ".
Hai cung Thìn và Tuất là "Thiên la Địa võng", lúc Thiên Đồng hóa Kị
sẽ biến thành lực kích phát, do đó thường là cách "phản bối", có thể
không thành cách "phản bối" nhưng cũng chủ về nhờ trải qua nhiều biến
động thay đổi mà thành người hữu dụng.
Ở cung Thìn ưu hơn ở cung Tuất, biến động thay đổi trong đời người
cũng ít hơn, biên độ biến động thay đổi cũng nhỏ hơn. Hơn nữa thường lại
được phát triển một cách thiết thực, và dễ gặp cơ hội phát đạt đột
ngột, có ý vị "vô tình cắm liễu, liễu xanh um".
Ở cung Tuất còn chủ về các bệnh viêm đau thần kinh, thống phong, ở cung Thìn thì nhẹ hơn.
Thiên Đồng độc tọa hóa Kị ở hai cung Tị hoặc Hợi, đối cung là Thiên
Lương, tam phương hội hợp với "Thiên cơ Cự môn", và mượn "Thái dương
Thái âm" nhập cung mà Thái Dương hóa Lộc. Tinh hệ này "tam phương tứ
chính" đều gặp Kình dương hoặc Đà la.
Thiên Đồng ở hai cung Tị hoặc Hợi là nhập miếu, Hóa Kị chỉ làm tăng "tâm trạng không ổn định".
Nhưng có lúc "tâm trạng không ổn định" này, có thể chuyển biến thành
bất mãn với người phối ngẫu. Nữ mệnh thường dễ vì ham muốn hư vinh mà
xảy ra sự cố, gây nên sóng gió trắc trở trong đời sống tình cảm và hôn
nhân. Nếu có các sao đào hoa trùng trùng, thì nên kết hôn muộn, nếu
không sau khi kết hôn dễ thay đổi tình cảm.
38- Văn Xương - can Tân hóa Kị
Văn xương hóa thành sao Kị, ý nghĩa trực tiếp nhất là "sai lầm về văn
thư", cho nên lúc thi cử, làm hợp đồng, gửi văn thư, .v.v ... đều phải
cực kỳ cẩn thận để tránh sai lầm, làm tăng thêm phiền phức không cần
thiết. Tóm lại, Văn xương hóa Kị là "chữ nghĩa gây ra rối ren, phiền
phức".
Văn xương tuy không dính dáng đến kim tiền, nhưng thời hiện đại là
xã hội công nghiệp, văn thư thường có liên quan đến thương nghiệp, do đó
cũng dễ tạo thành tổn thất kim tiền. Khác với Văn khúc hóa Kị, khi Văn
xương hóa Kị là vì yêu cầu của người khác, hay vì sai lầm của người
khác, mà bản thân mệnh tạo phải gánh trách nhiệm, còn đối với Văn khúc
hóa Kị thì trách nhiệm là do bản thân phải gánh vác, tức sai lầm là do
bản thân gây ra. Cho nên Văn xương hóa Kị thường dễ vì cho mượn, hoặc
đứng ra lấy tư cách bảo đảm mà bị tổn thất.
Văn xương hóa Kị, lạc hãm thì làm việc không chú tâm, thường thường
vì sơ sót mà gây ra trắc trở, còn biểu trưng cho là "mau quên", có lúc
lại biểu trưng cho "có tài mà không gặp cơ hội, học mà không dùng", Văn
xương hóa Kị cũng có thể biểu trưng cho "bỏ học nửa trừng".
Văn xương thích hợp làm công việc quảng bá, soạn thảo. Ngoài ra Văn
xương hóa Kị còn là điềm tượng hôn lẽ không được trọn vẹn, nếu gặp sát
tinh nặng, phần nhiều không có hôn lễ, cũng chủ về bị quấy nhiễu, gây
khó khăn về tình cảm. Văn xương hóa Kị chủ về "lốm đốm", cho nên biểu
trưng cho tàn nhang, nốt ruồi, đậu mùa.
Trên là những ý vị phổ biến và khái quát của Văn Xương hóa Kị, cần
phải xem xét các sao hội hợp thực tế mà định tính chất cụ thể.
39- Vũ Khúc - can Nhâm hóa Kị
Vũ khúc là sao "tiền tài", lúc hóa thành sao Kị sẽ biểu trưng cho
tình trạng xoay chuyển tiền bạc khó khăn, hoặc vì người khác mà phải
ngưng dừng nửa chừng, có lúc vì hoàn cảnh khách quan thúc đẩy mà phải mở
rộng việc kinh thương buôn bán đến nỗi không dự toán được, khiến tiền
bạc tổn thất. Đây là ý nghĩa cơ bản của Vũ Khúc hóa Kị.
Vì vậy có lúc cũng chủ về bệnh tật dây dưa kéo dài, hoặc tiến hành
một sự kiện nào đó vượt quá dự liệu, do đó ảnh hưởng đến tình hình chi
tiêu. Ví dụ như Vũ Khúc hóa Kị ở cung Điền Trạch đồng độ với Tham Lang,
chủ về vì sửa sang nhà cửa vượt ngoài dự toán ban đầu, để hoàn thiện thì
phải cố thu xếp, dẫn đến tiền bạc trống rỗng.
Vũ Khúc chủ về "quyết đoán", sau khi Hóa Kị nhuyễn hóa thành "quyết
liệt", có nghĩa là khi phải giải quyết vấn đề rắc rối phức tạp thì
thường quá cứng rắn, nên dễ bị trắc trở. Tinh hình như vậy rất dễ xuất
hiện trong vấn đề tình cảm, cho nên hôn nhân trở nên bất lợi. Cổ nhân
cho rằng đây là tinh hệ "không có lạc thú phòng the", ở thời hiện đại
đây là điềm tượng hôn nhân đổ vỡ.
Vũ Khúc hóa Kị cũng bất lợi về sức khỏe, chủ về phẫu thuật. Lúc hội
hợp các sao không tốt, thì chủ về khối u, phù thũng. Khi hội hợp với Tạp
diệu chủ về các bệnh có tính hao tổn, nếu còn gặp thêm các sao Sát -
Hình, có lúc biểu trưng cho bệnh ung thư.
Do Vũ Khúc hóa Kị có đặc tính "quyết đoán", do đó còn có thể biểu trưng cho rụng răng, đau răng.
Nói chung Vũ Khúc hóa Kị ở 12 cung đều có ý vị không cát tường.
"Vũ khúc Thiên phủ" đồng độ ở hai cung Tý hoặc Ngọ, khi Vũ khúc hóa
Kị thì Thiên phủ ắt sẽ hóa Khoa. Tham khảo mục Thiên phủ - can Nhâm hóa
Khoa.
"Vũ khúc Tham lang" đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi (ở cung Mùi thì
gặp Lộc tồn), mà Vũ Khúc hóa Kị, tam phương hội hợp với "Liêm trinh Phá
quân" và "Tử vi Thất sát" mà Tử vi hóa Quyền.
Tinh hệ này thường chủ về lý tưởng quá cao mà "lực bất tòng tâm" (bao
gồm cả năng lực tài chính), vì vậy xảy ra thất bại. Cho nên có lúc cũng
chủ về việc sắp thành lại hỏng.
Nếu có các sao đào hoa đồng độ, thì nên theo ngành nghệ thuật biểu
diễn, giải trí, vui chơi, v.v... thì lại có thể phát huy. Nếu có Sát
tinh đồng độ, thì thích hợp với ngành công nghệ, khoa học kỹ thuật. Việc
theo những ngành nghề này, còn có thể hóa giải đặc tính xấu của Vũ Khúc
hóa Kị, nhưng vẫn khó tránh gặp phải rắc rối về tinh cảm.
Nếu có Hỏa tinh Linh tinh đồng độ, chủ về sau khi phát lên một cách
đột ngột sẽ dễ bị suy sụp nhanh chóng. Cần phải xem xét các sao Lưu niên
để tìm cách "xu cát tị hung".
"Vũ khúc Thiên tướng" đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, Vũ Khúc hóa
Kị, đối cung là Phá Quân, tam phương là "Liêm trinh Thiên phủ" mà Thiên
phủ hóa Khoa, lại hội Tử vi hóa Quyền.
Tinh hệ này "tam phương tứ chính" đều hội Sát tinh.
Tinh hệ này có hai điểm bất lợi: Một là, hôn nhân dễ sóng gió, trắc
trở trọng đại; Hai là, ưa hợp tác với người khác để sáng lập sự nghiệp,
nhưng thường vì nóng lòng muốn mau thành, mà bị tổn thất, thất bại.
Đạo "xu cát tị hung" là kết hôn muộn, rất nên thận trọng trong việc
lựa trọn bạn đời. Phải suy tính kỹ lưỡng kế hoạch hợp tác, và định rõ
các điều kiện hợp tác một cách tỷ mỹ mới có thể tiến hành.
Đại khái là, tinh hệ này không nên hợp tác kinh doanh, trái lại có
thể nên một mình đảm trách công việc, nguy cơ thất bại cũng nhỏ hơn.
"Vũ khúc Thất sát" đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu (ở cung Mão có thể
gặp Lộc tồn), đối nhau với Thiên Phủ hóa Khoa, tam phương hội với "Liêm
trinh Tham lang" và "Tử vi Phá quân" mà Tử vi hóa Quyền.
Tính chất cơ bản của tinh hệ này là "cô độc và hình khắc", cho nên
không thích hợp với nữ mệnh, chồng và con đều dễ ly tán. Cổ nhân cho
rằng nên làm nhị phòng hay kế thất, thời hiện đại chủ về không có hôn lễ
chính thức.
Đời người thường gặp sóng gió lớn, đây cũng là đặc điểm của tinh hệ
này, cho nên mưu sự thường rất hao tổn sức lực, tinh thần bị áp lực rất
nặng. Ở cung Mão thì đỡ hơn.
Nhiều lực để thư giãn, giảm áp lực, lại chủ về thích tiêu sài, nữ
mệnh thì càng nặng. Nếu có Phỉ Liêm đồng độ, thì mua sắp cuồng nhiệt,
nhưng mua rồi lại thường không dùng tới.
Vũ Khúc độc tọa hóa Kị ở hai cung Thìn hoặc Tuất, đối cung là Tham
Lang, tam phương hội hợp với "Liêm trinh Thiên tướng", và "Tử vi Thiên
phủ" mà Tử vi hóa Quyền và Thiên Phủ hóa Khoa. Ở cung Thìn thì bị Kình
dương Đà la hội chiếu, ơ cung Tuất thì đồng độ với Đà la.
Thìn và Tuất là "Thiên la Địa võng", Vũ Khúc hóa Kị ở đây dễ biến
thành suy nghĩ nông cạn. Thường hay nóng lòng muốn đột phá, nhưng khi xử
lý sự vụ lại gây thêm phản ứng ngược, dẫn đến tình hình càng thêm rắc
rối khó khăn và phiền thức.
Tinh hệ này còn chủ về khi bị trắc trở thì lại thường có phải ứng sai
lầm, tiến thoái không hợp thời cơ, do đó dễ biến thành thất chí.
Thích lãng phí cũng là khuyết điểm của tinh hệ này. Thường thường tổn hao tiền vì bạn bè, mà thường không thấy được báo đáp.
Cũng chủ về hai lần kết hôn, nên kết hôn muôn, nhất là nữ mệnh.
"Vũ khúc Phá quân" đồng độ ở hai cung Tị hoặc Hợi, mà Vũ Khúc hóa Kị,
ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, đối cung là Thiên Tướng, tam
phương hội hợp với "Liêm trinh Thất sát" và "Tử vi Tham lang" mà Tử vi
hóa Quyền.
Tổ hợp các sao cơ bản đã có tính chất đổ vỡ và trắc trở, nhất là khi hợp tác với người khác sẽ có kết cục xấu.
Vũ Khúc hóa Kị ở cung Hợi, thì Kinh dương và Đà la sẽ giáp cung,
thành cách "Kình Đà giáp Kị", tình hình sẽ xấu hơn ở cung Tị. Ngoài việc
không nên hợp tác với người khác, còn chủ về cuộc đời phần nhiều đều bị
kinh tế áp lực, hễ có hành động thì liền bị kinh tế giới hạn, khiến
không thể đạt được lý tưởng. Nếu có thêm Hỏa tinh Linh tinh đồng độ, thì
đây là hiện tượng sụp đổ, thường thường việc sắp thành lại hỏng. Gặp
Thiên nguyệt, Thiên hư, Âm sát, thì chủ về cơ thể suy nhược, bệnh hoạn.
Hễ Vũ Khúc hóa Kị, thì Tử vi trong nhóm "Tử vi Tham lang" ắt sẽ hóa
Quyền, vì vậy tình hình khó khăn kinh tế thường do ham muốn quyền lực
gây ra, biểu hiện ở khuynh hướng "lực bất tòng tâm" và khuynh hướng lãng
phí.
Vũ khúc hóa Kị ở hai cung Tị hoặc Hợi, nam mệnh bất lợi về hôn nhân, chủ về vợ lộng quyền.
40- Tham Lang - can Quý hóa Kị
Ý nghĩa cơ bản của Tham Lang hóa thành sao Kị là "đoạt tình". Vì vậy,
nhẹ thì không như lý tưởng, nặng thì cảm thấy trắc trở về tâm lý. Nhưng
thông thường không bị tổn thất về vật chất.
Tham Lang hóa Kị mang lại bất lợi có tính chất khá ôn hòa, thường chỉ
là tranh cãi ồn ào, hoặc tâm trạng không yên, tâm trạng không yên có
lúc kéo dài, vì vậy mệnh tạo dễ đi tìm kiếm sự kích thích.
Tham Lang vốn đã có ý vị trang sức, trang hoàng, làm dáng, khi Tham
Lang hóa Kị sẽ làm mất đi phép lịch sự, hoặc có phần "đức" không tốt. Có
lúc, cũng là trang sức, trang hoàng, làm dáng không được như lý tưởng,
không tìm ra được cách sửa sang cho hợp sở ý, ví dụ như thích sửa sang
cho đẹp chỗ ở nhưng khi trang trí, trang hoàng bố cục nội thất, thì việc
lại rối tung rất khó thỏa mãn theo ý tưởng của chính mình.
Lúc "giao tế thù tạc", ảnh hưởng của Tham Lang hóa Kị mang lại sẽ là
tốn tiền một cách vô ích, dùng tiền chi phối "quan hệ thù tạc" mà không
được ai để mắt đến, không được bạn bè chú ý, cũng không được người ta
gọi là hào sảng.
Lúc có các sao đào hoa, hoặc các sao "khoa văn" đồng độ, Tham Lang
hóa Kị là biểu trưng cho biểu diễn văn hóa nghệ thuật, thường biểu hiện
bản thân trong giao tế, nhưng không xảy ra sự cố có tính chất đào hoa.
Tham Lang hóa Kị cũng chủ về vất vả, có đặc tính "không có việc gì
đáng mà cứ phải bôn ba bận rộn", lòng ham muốn tạo dựng sự nghiệp cực
nặng, thường không lo nghĩ quan tâm đến gia đình, còn ưa mở rộng kinh
doanh nhiều phương diện, khiến càng vất vả khổ lụy, lúc thu hoạch kết
quả thì lo lắng đến kết quả không được như ý tưởng ban đầu.
Tham Lang độc tọa hóa Kị ở hai cung Tý hoặc Ngọ, có Lộc tồn đồng độ
hoặc vây chiếu, đối cung là Tử vi độc tọa, tam phương hội hợp với Phá
Quân hóa Lộc và Thất Sát độc tọa.
Tham Lang hóa Kị ở hai cung này lại chủ về "tài nghệ", nhưng bất lợi
về tình cảm. Nhất là nữ mệnh dễ bị người đã có gia đình theo đuổi, dù
hôn nhân có sự cố thay đổi, nhưng vẫn có khuynh hướng "ngó đứt mà lòng
còn tơ vương", không thể dứt khoát được.
Trong 12 cung Tham Lang hóa Kị ở cung Tý là tốt nhất, cung ngọ là kế
đó, sự nghiệp và tiền bạc đều tốt, chỉ tại mệnh tạo luôn cảm thấy không
được như lý tưởng mà thôi.
"Vũ khúc Tham lang" đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, Tham Lang hóa Kị
ắt sẽ có Kình dương đồng độ, hoặc Kình dương Đà la hội chiếu, tam
phương tương hội với "Liêm trinh Phá quân" mà Phá quân hóa Lộc, và "Tử
vi Thất sát".
Tham Lang hóa Kị ở bản cung, chủ về sự nghiệp và tiền bạc không có gì
đáng ngại, chỉ chủ về đời người khó đạt tới lý tưởng, nhưng thông minh
tài trí vẫn được phát huy, phần nhiều phát huy trong nghề nghiệp. Tuy
vẫn khó tránh rắc rối về tình cảm, nhưng rốt cuộc vẫn giải quyết được.
Tham Lang hóa Kị độc tọa ở hai cung Dần hoặc Thân (ở cung Dần thì gặp
Lộc tồn), đối cung là Liêm Trinh, tam phương tương hội với Phá Quân độc
tọa hóa Lộc, và Thất Sát độc tọa.
Tham Lang hóa Kị ở hai cung này, nếu có Hỏa tinh, Linh tinh đồng độ,
cũng chủ về có tiền của bất ngờ. Nhưng nếu hội Kình dương và Đà la, cổ
nhân cho rằng đây là điềm tượng "bị lưu đầy", thời cổ đại khi "bị lưu
đầy" còn bị săm đóng "dấu chữ" lên mặt, do đó ý vị mở rộng là "phá
tướng" hoặc có thẹo, có lúc là giải phẫu thẩm mỹ. Nữ mệnh gặp tổ hợp
tinh hệ này chủ về bị người có gia đình theo đuổi.
"Tử vi Tham lang" đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu, Tham Lang hóa Kị,
tam phương tương hội với "Vũ khúc Phá quân" mà Phá Quân hóa Lộc, và
"Liêm trinh Thất sát".
Tinh hệ này "tam phương tứ chính" đều gặp Sát tinh.
Tham Lang hóa Kị sẽ giảm bớt ý vị "Đào hoa phạm chủ", mà chủ về làm
tăng năng lực phát triển sự nghiệp. Khi gặp hóa Kị chỉ là không được như
ý tưởng, có lúc cũng chủ về sự nghiệp phát triển chậm.
Tinh hệ này còn có sắc thái "tham việc" do đó thường kiêm nhiều nghề,
hoặc có ý thích cùng một lúc hai việc, nhưng trên thực tế chỉ làm tăng
gian khổ trong đời người.
Nếu so sánh thì tinh hệ này ít có rắc rối về tình cảm.
Tham Lang độc tọa hóa Kị ở hai cung Thìn hoặc Tuất (ở cung Thìn còn
hội Lộc tồn), đối cung là Vũ Khúc, tam phương tương hội với Pha Quân độc
tọa hóa Lộc, và Thất Sát độc tọa.
Tinh hệ này ở cung Thìn thì "Lộc trùng điệp" có thể thành Cách. Ngoại
trừ cách "Hỏa Tham" và "Linh Tham", có không chủ về phát lên một cách
đột ngột, mà là điềm tượng dùng tài trí và kỹ năng của bản thân để tạo
dựng sự nghiệp. Ở cung Tuất tuy không có "Lộc trùng điệp", nhưng cũng có
thể thành phúc cách. Nhưng bất kể ở cung nào cũng đều khó tránh vất vả.
Về phương diện tình cảm, nhất là nữ mệnh, thường không lãng phí thời
gian, tinh thần chỉ chuyên chú lo cho sự nghiệp mà thường làm lỡ mất
lương duyên.
"Liêm trinh Tham lang" đồng độ ở hai cung Tị hoặc Hợi (ở cung Hợi có
Đà la đồng độ, ở cung Tị có Kình Đà hội chiếu), Tham Lang hóa Kị, tam
phương tương hội với "Tử vi Phá quân" mà Phá Quân hóa Lộc, và "Vũ khúc
Thất sát".
Tham Lang hóa Kị ở tinh hệ này, do có Liêm Trinh đồng độ, nên thường
biểu trưng cho đau khổ về tình cảm. Tinh hệ này còn là biểu hiện của
nghệ thuật. Tổng hợp hai tính chất này sẽ thành nỗi thống khổ trong nghệ
thuật, hoặc chủ về nghệ nhân gặp nhiều rắc rối về tình cảm.
Người có tinh hệ này thủ Mệnh, không thích hợp tự kinh doanh làm ăn,
phần nhiều đều có tính xung động trong kinh doanh làm ăn, do đó thường
gây ra trắc trở. Lúc đầu tư, thường thường có khuynh hướng mạo hiểm, dễ
thành phá tán thất bại, cần phải chú ý phép "xu cát tị hung".
No comments:
Post a Comment
Bạn vui lòng chờ kiểm duyệt