Search This Blog

Friday, March 2, 2012

KINH NGHIỆM QUAN TRỌNG VỀ TUẦN, TRIỆT ĐỂ GIẢI ĐOÁN ĐẠI HẠN TỐT, XẤU

KINH NGHIỆM QUAN TRỌNG VỀ TUẦN, TRIỆT ĐỂ GIẢI ĐOÁN ĐẠI HẠN TỐT, XẤU

Người mà Mệnh, Thân có Tuần (hay Triệt) đến đại hạn gặp Triệt (hay Tuần) thì được mở ra, trở nên khấm khá
Nhiều trường hợp đáng kể trong chi tiết

Trần Việt Sơn

Trước đây, chúng tôi có ghi một kinh nghiệm về Tuần Triệt. Không phân biệt nam nữ, cứ người tuổi Dương thì chuyển theo chiều ngược, hễ thấy Tuần hay Triệt chận đầu cung nào thì cung đó bị giảm, bị chận nhiều; còn như Tuần hay Triệt ở cung nào, mà ở sau, tức là ở thế vuốt đuôi, thì chỉ giảm ít thôi. Ảnh hưởng của Tuần thì nhẹ nhưng lai rai lâu dài, còn ảnh hưởng của Triệt thì mạnh và chỉ trong một giai đoạn ngắn.

Chắc rằng ảnh hưởng của Tuần và Triệt không phải chỉ có thế. Chúng tôi đã đem vấn đề đến hỏi cụ Thiên Lương, và ụ đã chỉ về các kinh nghiệm của cụ về một trường hợp rất quan trọng: trường hợp Tuần (hay Triệt) đóng tại Mệnh (hay Thân) và đại hạn đi đến một cung có gặp Triệt (hay Tuần). Tức là Mệnh Thân có Tuần, đi đến một cung đại hạn có Triệt; hay là Mệnh hay Thân có Triệt đi đến một cung đại hạn có Tuần.

Nguyên tắc quan trọng để xác định đại hạn tốt xấu.
-Một đại hạn tốt hay xấu, là tùy theo Hành của cung đại hạn có sinh cho Hành của Mệnh hay không. Đó là kinh nghiệm thông thường , sách nào cũng có nói tới.
-Cụ Thiên Lương đã nêu lên kinh nghiệm khác mà chúng tôi đã trình bầy trong một số giai phẩm trước, đó là khi nào đại hạn đến một cung thuộc vào một trong 3 cung tam hợp tuổi của mình, thì đó là đại hạn tốt; vận mình khá trong đại hạn này.
1)Người tuổi Thân Tý Thìn, đại hạn đến cung Thân Tý Thìn là tốt
2)Người tuổi Tị Dậu Sửu, đại hạn đến cung Tị Dậu Sửu là tốt
3)Người tuổi Dần Ngọ Tuất, đại hạn đến cung Dần Ngọ Tuất là tốt
2)Người tuổi Hợi Mão Mùi, đại hạn đến cung Hợi Mão Mùi là tốt.
Chúng tôi gọi tắt là đại hạn đến cung tam hợp tuổi là tốt.

-Bây giờ lại đến kinh nghiệm khác của cụ Thiên Lương: là Mệnh (hay Thân) mà có Tuần thì đến đại hạn gặp Triệt, cuộc đời sẽ mở ra, đó là đại hạn tốt. Hoặc là Mệnh (hay Thân) mà có Triệt thì đến đại hạn có Tuần là được mở ra. Kinh nghiệm chỉ mới trong nguyên tắc đại cương như vậy, đem áp dụng vào một số người tháy đúng. Qua mấy lá số đó không phải là đại hạn tốt theo những cách giải đoán thông thường, thế nhưng cuộc đời thật của đương sự có thăng tiến trong giai đoạn ấy. Chúng tôi đã tìm hỏi cụ Thiên Lương, được cụ chỉ đúng đại hạn đó là tốt; hỏi lý do tại sao, cụ cho biết đó là Triệt gỡ Tuần, hay Tuần gỡ Triệt.

Lý do
Nhiều nhà Tử vi biết cái nguyên tắc Triệt phá Tuần, và Tuần phá Triệt, nhưng ít áp dụng vào việc giải đoán hạn.
Ta có thể hiểu lý do như sau: Mệnh có Tuần cản trở, nên cuộc đời lận đận; nhưng đến đại hạn có Triệt, thì Triệt đụng độ với Tuần, hai sao đụng độ với nhau, thành thử Tuần nhãng quân việc cản trở Mệnh, cuộc đời trở nên khá.
Có người giải thích: Tuần cản Mệnh, đến khi gặp đại hạn có Triệt, thì Triệt cản lại Tuần, cho nên cuộc đời được ra khỏi thế kẹt.

Vài lá số dẫn chứng
Lá số ông Giáp Tý, sanh mùng 5 tháng 7, giờ Tí, Kim mệnh, Kim cục. Lá số với mấy điểm chính liên quan đến việc dẫn giải Tuần Triệt như sau:
LINK LÁ SỐ
Khá, thành đạt. Theo kinh nghiệm về đại hạn tam hợp tuổi, thì tuổi Tý, đại hạn đến cung Thân Tý hay Thìn là ăn. Số này khá đặc biệt ở đại hạn cung Tý, ở cung Quan lộc có Tử vi, Thái tuế, đó là đại hạn 44-53. Sang đại hạn 54, sẽ giảm kém. Nhưng đương số Mệnh có Triệt, khi đại vận đến cung Phúc, tại Tuất, gặp Tuần lần đầu tiên, tức là đại vận 24-33, là cũng được tốt. Đó là đại hạn tốt đẹp, thi đậu, đi làm, thành đạt.

Kinh nghiệm để ghi thêm
Mệnh có Tuần, đến đại hạn đầu tiên gặp Triệt là ăn, đại hạn sau cũng có Triệt nhưng không ăn nữa. Vậy chỉ kể đại hạn đầu mà thôi. Mệnh có Triệt, cũng đến đại hạn đầu gặp Tuần là ăn.

Lá số cụ Nguyễn Công Trứ
Tuổi Mậu – Tuất, sanh ngày 1 tháng 11, giờ Thìn.LINK LÁ SỐ
Những đại hạn tại cung tam hợp tuổi tại Tuất và Dần, đều là đại hạn tốt.
Thân có Tuần, cho nên hôn ám cả nửa sau cuộc đời, không cho Thân được hài lòng. Nhưng Thân có Tuần, thì đến đại hạn đầu tiên gặp Triệt tất phải ăn. Đó là đại hạn 43, tại Tí. Đại hạn này tốt dù không phải là tam hợp tuổi, nhưng được Triệt chế ngự Tuần. Đó là đại hạn trong đó cụ Trứ được thăng chức nhiều lần, lên 7, 8 bậc.

Kinh nghiệm ghi thêm: Thân gặp Tuần hay Triệt
Thân bị Tuần hay Triệt, là Thân bị ám. Vậy cứ giả sử đến một đại hạn có Triệt để gỡ Tuần, hay Tuần để gỡ Triệt thì cuộc đời được mở ra hay chăng? Thưa không hẳn còn phải tùy thời gian. Vì là Thân bị ám cho nên cuộc đời sẽ chỉ mở ra khi đại hạn ấy là sau 30 tuổi (ứng vào Thân). Chứ nếu đại hạn ấy, dù có Tuần hay Triệt để mở ra, nhưng lại là đại hạn trước 30 tuổi, thì cũng không có ảnh hưởng gì (vì chưa đến giai đoạn của Thân).

Nếu đại hạn vừa được Tuần Triệt gỡ ra, vừa là tam hợp tuổi
Mệnh có Tuần, đến đại hạn Triệt là gỡ ra. Hay Mệnh có Triệt, đến đại hạn Tuần là gỡ ra. Nếu đại hạn này lại đúng là đại hạn trong thế tam hợp tuổi, thì ảnh hưởng tốt lại tăng thêm gấp đôi (vì có hai cái tốt cộng lại).

Một lá số dẫn giải: tuổi Canh ngọ, ngày 16 tháng 7, giờ Sửu.LINK LÁ SỐ Mệnh tại Mùi, có Triệt. Đến đại hạn 33 tại Tuất, có đồng thời hai yếu tố tốt: thứ nhất, đó là cung tam hợp tuổi; thứ hai, đó là cung gặp Tuần để gỡ ảnh hưởng của Triệt. Trong đại hạn này, nhân vật bốc lên thật mạnh, lên cao chót vót, nhất hô bách nạp. Nhưng hết đại hạn đó là hết ăn luôn. Lại phải chờ đến đại hạn 73, tại Dần, là đại hạn tam hợp tuổi, mới lại khá.

Mệnh bị cả Tuần và Triệt
Mệnh bị cả Tuần và Triệt, thì không còn đại hạn nào gặp một trong hai sao đó nữa, và không có gì để gỡ thế kẹt nữa, nhất là cả hai Tuần và Triệt cùng áp đảo Mệnh.

Nhưng đại hạn đến cung tam hợp tuổi, thì có khá không? Thưa rằng cũng khá hơn, nhưng cái khá phải giảm đi 50%, là vì cả Tuần và Triệt đè nén Mệnh. Sau đây là lá số Quý Hợi:
Mệnh có Phủ, Vũ, Lộc tồn, Thiên không. Lộc trái khoáy nên không bền. 3 lần phá sản. Đến đại hạn tam hợp tuổi (cung Hợi, Mão, Mùi) làm ăn phấn chấn hơn, nhưng cũng phải chăng, bị giảm chế, hoặc phát nhiều lại tán hết. Tuần Triệt cùng ở tại Thân, cũng có ảnh hưởng như Tuần Triệt cùng tại Mệnh

Tùy theo tuổi Âm Dương đóng cung nào
Biết rằng có trường hợp đến đại hạn bộc phát, nhưng sẽ khá vào khoảng nào trong đại hạn? Có những trường hợp như sau:
-Người tuổi Âm, mệnh đóng cung Dương, hoặc người tuổi Dương, Mệnh đóng cung Âm: Mệnh có Triệt hay Tuần, gặp cung đầu tiên có Tuần hay Triệt, thì đại hạn đó ăn, nhưng ăn về 5 năm chót của đại hạn (xin so sánh với kinh nghiệm chính tinh là Bắc đẩu tinh hay Nam đẩu tinh).
-Người tuổi Âm, Mệnh đóng cung Âm; hay người tuổi Dương, Mệnh đóng cung Dương: Mệnh (hay Thân) có Tuần (hay Triệt), đến khi gặp đại hạn đầu tiên có Triệt (hay Tuần), thì đó là đại hạn tốt, và tốt ngay khi mở vào đại hạn, tức là tốt trong khoảng 5 năm đầu của đại hạn.

Lá số Ất Sửu vào đại hạn ăn ngay
Lá số tuổi Ất Sửu, ngày 28 tháng 6, giờ Thân, LINK LÁ SỐđại cương như sau:
Vị này gặp những cách khó làm chức lớn, cứ lên đến Chánh sự vụ là lại xuống. Xin lưu ý đại hạn tấn phát thuộc tam hợp tuổi tại Dậu (25-34). Mệnh gặp Tuần, đến đại hạn 45 ở Mùi, gặp Triệt là đại hạn bộc phát (dù không được tam hợp tuổi, mà được Triệt cởi gỡ những cái đè nặng của Tuần là được tốt) và vừa bước vào đại hạn là bộc phát ngay, vị này được cử ngay làm Tổng thư ký Bộ.

Một vài lá số khác
Tuổi Tân Dậu, 27 tháng 9 giờ Tị.Link cần chèn
Vị này dù thành đạt, luôn luôn ở chức phụ tá (là vì Triệt đóng tại mạng) lên nữa không được. Cứ thế mà kéo dài cuộc đời, cho đến đại hạn 42 ở Tài bạch tại Sửu. Tại đây cái tốt tăng lên gấp đôi, là vì cung Sửu vừa là cung tam hợp tuổi, vừa gặp Tuần cởi gỡ khỏi Triệt, thế là bốc mạnh một bước nhảy vọt lên làm Tổng giám đốc…nhưng vừa hết đại hạn này, sang đại hạn 52 xuống ngay.

Kính mời quý vị xét nghiệm lại kinh nghiệm trên qua các lá số của quý vị, có trong tay
KHHB số 74C2

Tìm hiểu tính tình phụ nữ qua tử vi

Tìm hiểu tính tình phụ nữ qua tử vi
Phong Nguyên (KHHB 45)

Những cách xấu

1/ Tham lang địa kiếp
Đa số các nhà tử vi ko khen phụ nữ nào có 2 sao này hay 1 trong 2 sao tọa thủ tại mệnh thân (nhất là mệnh).

Câu phú “Trai bất nhân Phá quân thìn tuất, gái bạc tình Tham Sát dần thân” chỉ chê phụ nữ có Tham, Sát dần thân là bạc tình, nhưng tôi nghiệm thấy còn tệ hơn nữa vì người đó ngoài tính bạc tình còn có tâm địa ích kỉ, tham vọng vô bờ bến về mọi phương diện nhất là về tình và tiền (gặp ai mà ưa là say mê liền hoặc đang yêu mà thấy người đó hết tiền là bỏ luôn).

Về câu phú trên tôi thấy ứng nhiều với sao Tham Lang chứ ít đúng với sao Thất Sát nếu không có sao tăng cường. Thực tế khi mạng cư dần thân có Sát thì cung xung chiếu bao giờ cũng là Tử Phủ là 2 sao trung hậu, gây ảnh hưởng ko ít cho Thất sát, nhất là khi mạng ko có ngũ hành hợp sao này, hơn nữa chính sao Thất sát là sao chủ về khắc khổ, khắc khe, u buồn, ít tình cảm, thì khó thể quyết đoán là đương số bạc tình. Phải chăng là có những tính này nên không yêu đương đằm thắm được, chứ làm gì có lòng dâm tà.

Nhưng khi có Tham Lang thủ mạng, nhất là ở tí ngọ, dần thân, thìn tuất thì khó thể níu kéo cung xung chiếu để chế hóa mạnh mẽ sao này.
Có nhà tử vi đã ko lầm khi cho rằng Tham Lang còn tệ hơn Đào, Hồng, Riêu, Mộc vì Tham Lang vừa dâm vừa gian tà ích kỉ trong khi Đào, Hồng, Riêu, Mộc chỉ có đam mê về nhục dục chứ chưa hẳn thiếu tâm hồn cao thượng, vị tha. Nếu chẳng may có Tham Lang thủ mạng lại gặp đủ bộ sao lả lướt trên đây thì thực là quá sức dâm dật hoặc vô luân; những người phụ nữ đó không thể chấp nhận làm người bạn đời được. Riêng Tham Vũ và Liêm Tham thì ít bị ảnh hưởng của Tham Lang vì thuộc về cách khác

Còn sao Địa Kiếp tuy ko chủ về tình ái nhục dục nhưng có đặc tính mạnh mẽ về gian tà, thủ đoạn, tàn nhẫn, bần tiện, ác độc. Chỉ 1 sao này cũng đủ làm cho tâm hồn người phụ nữ xấu xa và cũng đủ làm hỏng gần hết các cách hay khác. Nếu xui có thêm Tham Lang thì người đó hết làm bạn được với ai. Nếu có Đào Hồng Binh Tướng hội chiếu thường hay bị hãm hiếp; hoặc làm gái điếm khi có thêm Riêu, Mộc, Cái, Hỏa, Linh và 1 vài cách bổ túc khác.

Tôi cho rằng thà có Địa Không lâm mệnh thân còn hơn có Địa Kiếp, vì Địa Không thường chủ về vất vả, thất bại, hôn nhân trắc trở chứ ít khi chủ về gian trá, ích kỉ mạnh mẽ như địa kiếp. Mặc dù có câu phú “Không kiếp lâm Tài Phúc chỉ hương sinh lai bần tiện” tôi cho rằng chỉ ứng với Kiếp. Riêng về Không Kiếp đắc địa Tị Hợi thì ko liên quan gì đến cách đoán trên vì cách này cũng là 1 cách tốt cho nam lẫn nữ, nhất là Âm Nam, Dương Nữ (tôi đã bàn kĩ về điểm này trong bài đầu tiên của tôi trên KHHB)

2/ Đào, Hồng, Riêu, Mộc, Cái
Sau sao Tham Lang tôi chê người phụ nữ nào có các sao này, dù họ có cả Tử Phủ, Khôi Việt, Quan Phúc chiếu mệnh chăng nữa. Thực tế các sao đó có năng lực rất mạnh về tình ái, nhục dục cho nên bộ sao đứng đắn khó làm mất hiệu lực của chúng, nhất là khi có cả Không Kiếp, Hỏa Linh, Phục, Tả Hữu thì thuộc về hạng gái làm tiền.

Chỉ có 2 sao Đào Riêu vẫn là loại gái lăng loàn, trắc nết, dễ cắm sừng vào đầu chồng, chẳng thế mà có câu “Đào Riêu số gái ai hay, chồng ra khỏi cửa dắt trai vào”.

Hơn nữa, nguyên sao Đào Hoa hoặc Hồng Loan thủ mệnh cũng bát lợi cho người chồng vì 2 sao này chủ về 2 đời chồng hoặc ít khi sống gần chồng. Tôi ko cho 2 sao này nói về tình ái liên tục mà thực ra là “trăm mối tối nằm không”, như vậy có hay gì cho hạnh phúc vợ chồng. Đấy là chưa kể về vấn đề yểu tướng khi có Không Kiếp giao hội, vì có câu “Đào, Hồng hội Kiếp Không lâm thủ, sá bàn chi những lũ yểu vong”

3/ Vũ khúc, Cô quả, lộc tồn
Những sao này khi thủ mạng nữ chẳng bao giờ có nghĩa xấu xa, nhưng tôi vẫn ko cho là tốt vì các sao đó chủ về cô đơn, góa bụa, hoặc lạnh lùng, khắc khe, là những yếu tố ko lợi cho hạnh phúc lứa đôi. Nhưng bù lại, người đó có tay làm ra tiền và càng nhiều tiền càng dễ bị sống xa cách chồng. Cách này hay dở tùy thuộc cảm nghĩ hoặc í thích của người chọn vợ, vì có ông chỉ nghĩ đến tiền nên khi vợ làm ra nhiều tiền thì đương nhiên được coi là hay, nhưng có ông chỉ ưa sống gần vợ mà cứ phải nay đây mai đó hoặc phải chia ly xa cách vì hoàn cảnh sự nghiệp thì đương nhiên cách này thành xấu

4/ Phá quân, Đại Tiểu hao
1 phụ nữ không dâm tà độc địa ích kỉ, không lạnh lùng khắc khe cũng chưa đủ làm người vợ tốt: người đó còn cần có tính cẩn thận, tằn tiện, ngăn nắp nữa mới có thể thành người nội trợ giỏi, đảm đang. Như vậy phải tránh Phá quân hội Đại Tiểu hao (trừ khi Đại Tiểu hao cư Mão, Dậu) dù cho Phá quân đắc cách ở tí, ngọ vì các sao này chủ về bừa bãi, ngông cuồng, hoang phí, phóng khoáng ăn chơi, cờ bạc, nghiện ngập. Dù mình là tỉ phú cũng chẳng nên lựa người phụ nữ kiểu này, vì chẳng mấy chốc mà sự nghiệp tan tành vì bị phá của rất mạnh mẽ.

Trên đây là những điều tôi cho rằng tối kị với phụ nữ, vì thực ra còn nhiều cách xấu khác không tai hại lắm và cũng khó thể tránh được. Nhân vô thập toàn mà

Những cách tốt

1/ Tử Phủ dần thân
Cách này ít nhà tử vi dám chê và riêng tôi, tôi coi cách này hay nhất đối với phụ nữ. Mỗi khi coi lá số 1 người phụ nữ có cách này là tôi có thiện cảm và kính trọng liền, vì gần như chắc chắn người đó đoan trang, tiết hạnh và thông minh.

Nhất là khi có thêm Hóa Khoa đồng cung hoặc Khôi Việt giao hội thì thực hết chỗ chê. Riêng Hóa Khoa có điềm hay đặc biệt là vừa thông minh lại vừa nhân hậu từ trong lòng đến bề ngoài (như thế là nhân hậu thật sự chứ không phải đạo đức giả). Phải chăng vì thế mà theo cách bố cục các sao, Đào Hoa không bao giờ đồng cung Tử Phủ dần thân, vì đào hoa chủ về đa tình, lãng mạn lẳng lơ. Còn Hồng Loan tuy cũng có khi đồng cung (khi tuổi Sửu Mùi) nhưng không đáng ngại vì Hồng Loan thường chủ về 2 đời chồng hoặc trắc trở hôn nhân chứ ít khi có nghĩa đa tình như Đào Hoa, nhất là khi có Tử Phủ chế hóa nhiều

Có người thắc mắc sao không coi Tử vi cư ngọ là tốt nhất đối với người phụ nữ. Thật ra cách đó chỉ tốt về công danh uy quyền chứ không hẳn tiêu biểu cho nết hạnh phụ nữ. Chẳng thế mà cung Ngọ cũng là 1 trong 4 vị trí của đào hoa, và khi sao này cư Ngọ thì đương nhiên người phụ nữ đó coi tình ái như “pha” nghĩa là họ có thể trở thành bạc tình, dù có Tử Vi đóng ở đó nữa. và có khi chính vì có Tử Vi mà thành ngang tang trong vấn đề tình ái vì Tử vi cư ngọ được coi là “vua” trong các sao thì coi ai ra gì. Tuy nhiên khi có Tử vi mà không có đào hoa thì vẫn cho là tốt về tính tình nhưng nhất định có tính kiêu kì quá đáng, là 1 điều làm phái nam bực mình và thiệt thòi

2/ Tử Sát tị hợi
Cách “Tử Sát đồng lâm tị hợi nhất triều phú quí song toàn” là cách tốt thứ 2 đối với phụ nữ, theo ý kiến của riêng tôi. Tuy nhiên, cách này cũng có khía cạnh đáng chê là người phụ nữ đó thường nghiêm nghị quá, thành ra mất vẻ nữ tính, nhất là gặp ông nào nhiều tình cảm thì thực là giảm nhiều khắng khít. Nhưng bù lại người phụ nữ đó rất vượng phu ích tử hoặc có tay làm ra tiền như thế cũng là hay lắm rồi.

Còn những cách liên hệ với tử vi như Tử Tham,Tử Tướng, Tử Phá … tôi không dám cho là tốt được, vì như Tử tham thì cũng tệ như những cách xấu nêu trên, nhất là có thêm đào hoa (mão hoặc dậu), Tử Tướng lại phạm vào câu “Đế tọa La Võng, hoàn vi phi nghĩa chi nhân”, còn Tử Phá tuy khá hơn nhưng hay có tính ngang bướng, bất cần đời mặc dù cũng đứng đắn

3/ Đồng Lương dần thân
Cách “Đồng Lương tối hỉ dần thân hội” cũng đáng gọi là hay vì người phụ nữ nào có cách này tính tình nhẹ nhàng, dịu dàng và nhất là có sắc đẹp mĩ miều (nhưng ở đây tôi không bàn về nhan sắc mà chỉ nói về tính tình). Tuy nhiên, cách này vẫn thua kém 2 cách trên về sự đứng đắn, đoan trang và quí phái, vì khi đã dính tới Thiên Đồng là chủ về thay đổi, canh cải, không giữ vững lập trường tức là không thể chung tình tuyệt đối được, nhất là khi Hồng Loan đồng cung.

4/ Vũ Tướng dần thân
Cách này hay ở chỗ là người đảm đang, đứng đắn, biết xoay xở quán xuyến, nhưng vì liên hệ tới Vũ Khúc nên tính thích cô đơn, lạnh lùng và quả quyết như đàn ông (do đó cần tránh Cô quả, lộc tồn), còn Thiên Tướng chủ về chỉ huy nên dễ bắt nạt chồng. Nếu ai chịu được những điều trên thì rất nên lựa người bạn đời có Vũ Tướng để khỏi bị gánh nặng gia đình trút hết vào mình, nhất là trong giai đonạ mưu sinh khó khăn hiện nay

5/ Vũ Sát mão dậu
Cách này chỉ hay ở phương diện đứng đắn, đoan trang vì 2 sao này cũng ghét tình ái bậy bạ, nhưng về tình vợ chồng thì vẫn xem trọng mặc dù không lả lướt lắm. vậy ai thích có vợ chỉ lo toan nội trợ hoặc tần tảo bán buôn thì hãy chọn cách này, nhưng cần phải tránh được Lộc tồn đồng cung và cô quả tại “thân” (vì không bao giờ cô quả tại Mão dậu) cư hợi hoặc mùi, để khỏi gặp người khắc chồng trở thành góa bụa

6/ Nhật Nguyệt đắc địa
Cách này có thêm Tả Hữu hoặc Song Lộc là người phụ nữ đảm đam nhất về phương diện kinh doanh lớn, nhưng có điểm kẹt khi gặp đào hồng hay riêu, mộc, cái thường hay thích ăn chơi ngoài xã hội dù vẫn lo chuyện làm ăn, vì Nhật Nguyệt bao giờ cũng chủ về mơ mộng vẩn vơ, có tâm hồn, “là thi sĩ nghĩa là du với gió”

7/ Cơ Lương thìn tuất
Cách này thường hay cho phái nam nhiều hơn nữ, vì rất hợp về mưu trí, kế hoạch, cho nên phụ nữ có cách này thì khôn quá có thể lừa dối, qua mặt chồng dễ dàng. Lẽ tất nhiên nếu không có các sao xấu hội hợp thì chẳng đáng ngại, nhưng lỡ có 1 vài điểm “mờ ám” nào là phải nên dè dặt đối với người bạn đời của mình

8/ Phủ Tướng triều viên
Đây là cách trung bình, nghĩa là chỉ chăm chỉ làm ăn, không có gì xuất sắc mà cũng không có gi đáng chê trách. Thường những người phụ nữ có cách này hay làm công chức, sống cuộc đời nề nếp

Các trung tinh tốt
Cũng cần nhìn vào Các trung tinh như thai tọa, khôi việt, quan phúc, tràng sinh đế vượng quang quí, long phượng, khoa, lộc (tôi không đề cập Hóa Quyền vì sao này không chủ về tính tình tốt của phụ nữ, có sao đó chỉ người kiêu căng, hách dịch, hay bắt nạt chồng) để cho điểm cao thêm vì những sao phụ trên đóng góp khá nhiều vào tính đọa đức, đứng đắn, đảm đang.

10 kinh nghiệm sát thủ của Tử vi

10 kinh nghiệm sát thủ của Tử vi
Giáo sư Lê Trung Hưng

Sách Tử vi mỗi ngày càng nhiều nhưng ý nghĩa các Sao vẫn thấy không thấy thêm ra, chỉ quanh quẩn trên nhưng câu Phú với ý nghĩa mơ hồ, nhiều khi đặt để ở một trạng thái gán ghép thành ra làm nản chí những người ham học hỏi Tử-vi không ít. Trong chiều hướng phải làm sao sáng tỏ cho ngành học lý đoán cổ truyền này, những công trình nào dù bé nhỏ tới đâu, nếu đem phổ biến một cách trung thực và nhiệt thành, thiết tưởng cũng là một nỗ lực khách quan nhất của người tri thiên mệnh để xây dựng xã hội. Học phái Thiên Lương xin lại mạn phép chư vị quân tử trình làng Tử vi “Mười Kinh nghiệm” được coi là những đòn sát thủ trên mỗi bản số Tử-vi để cùng nhau chiêm nghiệm :
1.Sinh bất phùng thời: Hạn Thái tuế vô chính diệu
2.Đồng bệnh tương lân: Hình, Riêu, Không Kiếp
3.Đời là bể khổ: cung ách
4.Công ơn tổ phụ: cung Phúc đức vô chính diệu
5.Đen như mõm chó: Cung quan lộc vô chính diệu
6.Làm thân trâu ngựa: Thế tương quan giữa cung Thân Mệnh và cung Nô bộc
7.Trắng tay sự nghiệp: Hạn Thiên không ở tứ mộ
8.Sớm đầu tối đánh: Nhận diện nhóm hung tinh chiến lược Kình, Đà, Linh, Hỏa, Không, Kiếp.
9.Được làm vua thua làm giặc: Người Tỵ, Dậu, Sửu với sao Phá toái.
10.Anh hùng tạo thời thế: Luận bốn mẫu người Tử sát, Tử tướng, Tử phủ và Tử Phá.
Bây giờ xin vào chi tiết

1- Sinh bất phùng thời :

Mỗi bản số đều được hưởng 10 năm thuận lợi, đắc ý nhất ở cung Tam hạp với Sao Thái Tuế (được gọi là vòng Thái Tuế).

Thí dụ : Người tuổi Tỵ, vậy khi đến hạn 10 năm ở một trong ba cung Tỵ, Dậu, Sửu là được hưởng vòng Thái Tuế. Nhưng có 01 điều cân nhắc cận thận về cường độ của sự thoải mãi, nghĩa là xem, đắc ý tới mực nào, thì phải xem xét cung Mệnh (và cả cung an Thân) có chính diệu tọa thủ hay không, đồng thời cung nhập hạn của vòng Thái Tuế có chính diệu hay không ?. Sự đắc thắng vẻ vang hay chiến thắng trong gian lao là tùy thuộc vào các điều kiện sau đây :
•Cung Mệnh (và cung an Thân) có Chính diệu hãm địa, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì chỉ đắc lợi một cách tương đối.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) có Chính diệu đắc địa, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì chỉ đắc lợi trung bình.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) Vô Chính diệu, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì vẻ vang trong gian khổ, sinh bất phùng thời.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) Vô Chính diệu, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung có Chính diệu tọa thủ (nhất là bộ Sát, Phá , Tham) thì chiến thắng rạng rỡ huy hoàng đắc lợi như ý muốn.
•Trường hợp Cung Mệnh trùng hợp với ngay cung của vòng Thái Tuế không tốt bằng cung an Thân trùng hợp với cung của vòng Thái Tuế (vì Thân chủ về hành động, còn Mệnh là lý thuyết và tư tưởng, nên chỉ có làm mới có hưởng, tay có làm thì hàm mới có nhai ! )

2- Đồng bệnh tương lân :
Trong những tai nạn cộng đồng, nghĩa là nhiều người vướng vào vòng hoạn nạn cùng một lúc và bởi một nguyên do (Thí dụ : tai nạn rớt máy bay làm nhiều người chết ... ) Tử vi đã trở lên nghi vấn trong cách giải thích trường hợp khó khăn và tế nhị này ? Tuy nhiên, nếu đem đối chiếu với những lá số thiệt mạng (hay chỉ mang thương tích) trong tai nạn cộng đồng, thì khi dùng phép quy nạp đã cho thấy nét tương đồng kể sau :

- Tam hợp với cung Mệnh có Thiên Hình, Thiên Riêu, Địa Không và Địa Kiếp (hay tam hợp của cung Ách )

- Cung Ách có Thất Sát, Phá Quân hay Tham Lang (Hay cung Mệnh có cách này)

- Tiểu Vận (một năm) hay Đại Hạn (10 năm) vào vòng tam hạp của Thiên Không (Thiếu Dương - Tử Phù và Phúc Đức)

Hầu hết những người có cách trên đều phải nếm qua mùi vị của " Đồng Mệnh tương lân " : Việc xảy ra nếu có người chết, kẻ chỉ bị thương, là còn do cung Phúc Đức chi phối, dù thế nào đi chăng nữa thì cũng phải cộng đồng tai ách. Chắc chắn không ai dám kiểm chứng trường hợp này, bằng cách tập hợp tất cả các cá nhân có Hình-Riêu-Không- Kiếp ở Mệnh (và Ách cung là thế Sát Phá Tham), nhưng nếu quý vị nào chịu khó sưu tập những lá số có có tiêu chuẩn vừa nói, thì sẽ thấy ngay cá nhân của bản số đều vướng phải chuyện xui xẻo này một lần trong đời của họ.

3- Đời là bể khổ : Cung Ách

Thế nhị hợp của cung Ách với hai cung Mệnh, Thân đã nói lên rõ ràng cái nghiệp mà nhà Phật chủ trương .

- Mệnh, Thân sinh phò Ách cung , là ta phải lãnh đủ mọi chuyện do ta đã làm. Cá nhân phải trực tiếp chịu ảnh hưởng cái hậu quả của việc ta đã tạo ra trong đời sống hằng ngày (gieo nhân nào, gặt quả ấy). Đây là giai đoạn tạo nghiệp mà Nguyễn Du tiền bối đã nói : "Thiện căn ở tại lòng ta"

- Ách cung sinh phò Mệnh, Thân là bản thân ta ở kiếp này phải hứng chịu nhiều những hậu quả truyền kiếp (do dòng họ tiền nhân để lại, cũng có thể là do đời sống ta kiếp trước để lại) Cho nên, trong chuyện Kiều có câu ứng :
Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng có trách lẫn trời gần trời xa.

- Mệnh,Thân sinh phò Ách cung là khi nào hành Tam hợp của cung Mệnh, Thân sinh ra hành của Tam hợp cung Ách (Ví dụ: Mệnh ở cung Dậu, vậy hành của Tam hợp Tỵ Dậu Sửu là Kim. Ách ở cung Thìn, vậy hành của Tam hợp Thân Tý Thìn là Thủy. Tam hợp Mệnh là Kim đã sinh phò tam hợp Ách là Thủy). Còn Ách cung sinh phò Mệnh, Thân cũng tính như cách vừa nói (Ví dụ : Ách ở cung Tỵ thuộc Tam hợp là hành Kim. Cung an Thân ở ngay cung Thân thuộc Tam hợp Thủy, do đó Ách (Kim) sinh xuất ra Thân (Thủy)

Mặt khác, đã gọi cung Tật Ách, thì chỉ được hiểu là những nghiệp xấu tích lũy tích tụ lại (còn nghiệp tốt tích tụ ở cung Phúc-Đức mới đúng nghĩa của nó) thành ra không bao giờ Đại Tiểu hạn đến cung Tật Ách mà người ta thấy thoải mái đắc ý được (sách xưa ghi đơn sơ : hạn Thiên Sứ xấu, chính là ẩn ý vậy). Đã biết cung Tật Ách xấu, và hiểu là những tai nạn cho mỗi bản số trong kiếp đang sống, thiết tưởng phải lưu ý hai bộ mặt của cung Ách :

- Ách cung thuộc cách Sát Phá Tham là hay bị ngoại thương, chủ về sự sát phạt tích cự mau lẹ.

- Ách cung thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, Tử Phủ Vũ Tướng chủ về nội thương, các tai họa có tính cách gậm nhấm, tiêu hao dần mòn ...

4- Công ơn Tổ-Phụ :
Nếu cung Ách tiêu biểu cho nghiệp xấu, thì cung Phúc Đức tượng trưng cho nghiệp tốt. Có điều cần phải nhấn mạnh là : nghiệp tốt với những cường độ khác nhau (phước mỏng hay phước dày là thế). Đa số sách Tử-vi đều hời hợt ghi chú :”Sao Mộ ở cung Phúc Đức là cách tốt đẹp”. Tôi thấy điều này trái hẳn với ý nghĩa Tăng–Trưởng–Hủy–Diệt của vòng Tràng Sinh (phải hiểu là 12 giai đoạn của một kiếp sống , chứ không phải là 12 sao: Tràng Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai và Dưỡng, được đa số nhìn như những tinh đẩu riêng biệt là một điều lầm lẫn lớn).

Cung Phúc Đức bản chất là một kho tích tụ những may mắn cho một đời người, nếu nó có sao Mộ đóng, tức là có nghĩa : giai đọan may mắn đã chìm sâu trong bóng tối một cách dễ hiểu hơn hơn là không còn hên nữa. Phúc Đức ở giai đoạn của Thai, của Dưỡng của Trường Sinh … là cách tốt đẹp khả quan nó biểu hiện cho những tiềm lực dồi dào, tài nguyên “may mắn” còn phong phú, còn tiềm tàng …

Ngoài ra, một kinh nghiệm khác về cung Phúc Đức, là khi nào cung này Vô Chính Diệu , được Thái Dương, Thái Âm (đắc địa) ở thế Tam Hợp hội nhập chiếu sáng rõ ràng một đời “Họa bất trùng lai, phước vô đơn chí”

Ví dụ : Cung Phúc Đức Vô Chính Diệu ở cung Mùi, có Thái Dương ở cung Mão, có Thái Âm ở cung Hợi chiếu sáng. Sách xưa có ghi “Nhật Nguyệt chiếu hư không chi địa” là một đời có nghĩa “ Bao nhiêu hạnh phúc ở trần gian, trời đã dành riêng để tặng … lá số “. Thiên địa hòa mình thì nhân sự thanh bình vậy.

5- Đen như mõm chó
Sống là phải tranh đấu, nhất là đối với những ai còn chủ trương : Có trung hiếu nên đứng trong trời đất, không công danh thà nát với cỏ cây (Nguyễn Công Trứ), thì cung Quan Lộc phải kể là quan trọng đối với đấng ”mày râu” (Riêng đối với phái đẹp, thì tác giả Vân Đằng Thái Thứ Lang đã bàn rõ cách Thân cư Quan Lộc có Tuần-Triệt án ngữ, xin miễn bàn nhiều !) Các cách tốt xấu của chính tinh ở Quan Lộc đã có nhiều sách giải rất chi tiết, nhưng khi cung này Vô Chính Diệu thì sao ? Xin thưa ngay rằng : Đen như mõm chó. Cổ nhân nói câu thành ngữ này là có ý diễn tả cái cảnh bấp bênh, cái tráo trở, cái bất hạnh, cái long đong … của con người. Cung Quan Lộc Vô Chính Diệu là một trạng thái bi đát, mà cụ Uy Viễn Tướng Công đã cay cú :

– Người trần thế muốn nhàn sao được ?
Nói dễ hiểu hơn : Công danh sự nghiệp, thăng trầm vật vờ như phù vân. Kể cả trường hợp được Nhật Nguyệt chiếu sáng thì cũng chỉ là cái thế của Quân Sư quạt mo, phò người để còn có mình, khí cái gốc nương nhờ sụp đổ thì ta còn gì, ngoài ý nghĩa “ký sinh nhân” ?

6- Làm thân trâu ngựa
Người biết coi số Tử-Vi đều ngán ngẫm nhóm sao tráo trở và thủ đọan là : Tả, Hữu, Không, Kiếp, Phục Binh, Kình, Đà …(được coi là nhóm hung tinh chiến lược) đóng ở cung Nô.
Trong bản số Tử-Vi thế nhị hợp của cung Thân, Mệnh và cung Nô cũng phải lưu ý nhóm sao dữ kể trên đóng ở vị trí nào :

– Nếu Tam hợp cung Thân – Mệnh có hành sinh xuất tam hợp cung Nô, mà cung Nô chứa bộ hung tinh chiến lược thì có nghĩa là làm ơn mắc óan, hữu công vô lao, bạn bè chỉ là hạng bất nhân luôn luôn tìm cách trục lợi mình, sang thì tìm đến, khó thì tìm lui. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tả óan :
Còn bạc còn tiền còn để tử
Hết cơm hết gạo hết ông tôi
Ví dụ : Cung Thân ở cung Hợi (thuộc Hợi Mão Mùi là Mộc), Cung Nô ở cung Dần (thuộc Dần Ngọ Tuất là Hỏa). Vậy là cái ta Mộc sinh xuất cho cái Nô Hỏa.

– Nếu tam hợp cung Thân- Mệnh được hành sinh nhập bởi tam hợp của cung Nô, mà cung Nô cũng chứa bộ hung tinh chiến lược, lại có nghĩa thâm thúy như sau : Bạn Bè, thuộc hạ của ta tuy là hạng đầu trâu mặt ngựa, đối với người khác là sự phản bội nhưng đối với ta vẫn trung thành phục vụ , đem hết sức khuyển mã để phụng sự ta.
Ví dụ : Nô Bộc ở cung Hợi (thuộc tam hợp Mộc) sinh nhập cho Thân ở cung Dần (thuộc tam hợp Hỏa). Những thầy phù thủy, thầy pháp cao tay ấn đều có cách này.

7- Trắng tay sự nghiệp
Đại, Tiểu Hạn trùng phùng, đáng sợ nhất của lá số Tử-Vi là Đại hạn 10 năm đóng tại một trong ba cung có sao : Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức (đỡ vất vả nhất) và Tiểu vận một năm cũng nằm trên một trong ba cung có sao vừa nói, (gọi là hạn Thiên Không, sẽ gặp số không ở cuối đường hầm). Cụ Thiên Lương chủ trương học Tử-Vi phải có lòng thành khẩn và can đảm mà gồng mình chịu đựng :

– Khi sao Thiên Không đóng ở Tứ Mộ (bốn cung Thìn Tuất Sửi Mùi ) nghĩa là không có trường hợp Đào Hoa, Thiên Không (xảo trá, mưu mô) và cũng không có trường hợp Hồng Loan Thiên Không (xuất tăng tầm đạo ) chỉ có một GRANĐ-ZEZÔ. Vậy khi nào hạn Thiên Không (vòng của Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức) nhập Mộ cung, thì kể như trắng tay sự nghiệp (nhất là khi Mệnh, Thân thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, mà Đại Tiểu hạn trùng phùng là Sát Phá Tham cách) may mắn lắm bản thân mới còn, đa số đều ôm hận ngút trời, mà về cõi ta bà Âm Phủ

8- Sớm đầu tối đánh:
Sáu sao Kình Dương, Đà La, Địa Kiếp, Địa Không, Hỏa Tinh và Linh Tinh. Tuy bản chất hung dữ nhưng có nhiều nét dị biệt cần phải bám sát vào ba đặc tính kể sau để nhận diện :

– Kình Dương và Đà La thuộc loại Sát tinh hữu dõng vô mưu, tuy tác hại nhưng còn chiêu hồi được. Nói cách khác, khi nó hãm địa là những bộ mặt quỷ dạ xoa, chủ trương tiêu diệt phá phách, nhưng khi chúng đắc địa nhất là cung Sửu, Mùi thì lại là mẫu hình Chung Vô Diệm tuy xấu mặt nhưng tốt bụng, luôn luôn trung thành, cứu giải phò nguy cho cung mang ý nghĩa mà đôi sao này trấn đóng.

– Địa Kiếp và Địa Không là cặp bài trùng phản trắc chung thân (bất kể chúng đóng ở cung hãm địa hay đắc địa) cung nào mà có bộ mặt của hai sao Không, Kiếp (dù một hay cả hai) thì cục diện cung đó đã có chiều hướng lệch lạc (Thiên Tả) lình xình. Không, Kiếp đắc địa ở cung Tỵ, Hợi, chỉ làm lợi buổi đầu, nó đưa người thụ hưởng lên thật cao rồi cuối cùng vật té xuống hồ sâu (bản chất phản trắc là như thế !). Ngoài ra, một vài tiểu xảo lý thú về sự lệch lạc của Địa Không, Địa Kiếp như sau : Cung Tử Tức có Không Kiếp là thêm con hoang, dị bào, khó nuôi con … Cung Huynh Đệ có Không Kiếp là có thêm anh chị em không cùng một giòng chính thống, hay anh chị em gái có người tình duyên dang dỡ... Cung Phối có Không Kiếp là nhiều lần chắp nối, vợ này, chồng khác (nhất là gặp phải góa phụ, góa vợ..).

– Hỏa Tinh và Linh Tinh là nhóm sao chuyên chú về những thủ đoạn vụng trộm, tính toán, tiểu lợi, chỉ rình mò khi nào đương số gặp vận xấu là vùng lên đánh lén để ăn có. Cung nào chứa Hỏa Tinh, Linh Tinh (chỉ cần một cung là đủ) là hay gặp phải ý nghĩa của câu “họa vô đơn chí”, nghĩa là đường kia nỗi nọ ngổn ngang tơi bời , bởi lo chuyện này chưa xong thì tai ách khác đã tới (nhưng không đến nỗi gay cấn lắm) quan trọng và tai hại nhất là những ai tuổi Canh, Tân (và mạng Kim) gặp hạn Linh, Hỏa ở thế Sát Phá Tham là tiêu tùng sự nghiệp, bổn mạng lâm nguy (Linh Hỏa đóng ở hai cung Thủy là Hợi và Tý thì hạn nhẹ nhất).

9- Được làm vua thua làm giặc
Sao Phá Toái hoạt động riêng trong giang sơn của nó là vòng Kim (thuộc ba cung Tỵ Dậu Sửu). Ai cũng biết Phá Toái chỉ chịu quy phục sao Phá Quân (gọi là Toái Quân- Lưỡng Phá). Do đó người Mạng Kim mà Thân, Mệnh đóng ở một trong ba cung Tỵ Dậu Sửu thuộc cách Sát Phá Tham thì hay nhất, anh hùng nhất (số làm tướng, bách chiến, bách thắng). Thói thường cỡi cọp thì sẽ có ngày cọp cỡi (sinh nghề tử nghiệp) thành ra những người tuổi Tỵ Dậu Sửu thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương ở cung Thân, Mệnh, hạn gặp Phá Toái kể như lọt vào vòng kiềm tỏa và ảnh hưởng trực tiếp của hung tinh này, đau khổ là lý đương nhiên, chưa vui họp mặt đã sầu chia ly.

10.Anh hùng tạo thời thế
Tử vi là chúa tinh, đóng ở cung nào đem bóng dáng của hạnh phúc vào cung đó, đây chỉ là lý thuyết tổng quát. Còn khi đem áp dụng vào bản số Tử vi thì đã biến thiên rất nhiều ý nghĩa, lẽ dễ hiểu: Vua hiền mà không gặp được bầy tôi tài giỏi, thì làm sao mà không gặp được bầy tôi tài giỏi, thì làm sao mà nước lã quấy nên bột nên hồ? Lưu Bị không gặp được Khổng Minh, Lê Lợi không có Nguyễn Trãi, chưa chắc đã có tình trạng lịch sử đáng được ghi chép. Có bốn mẫu cung Thân Mệnh (nhất là cung an Thân, vì có hoạt động mới tạo được thành quả) cần phân tích:

-Mệnh Thân có Tử Vi và Thất sát: Vua có thực lực nhưng bề tôi là đám chủ về bạo động, nên ở tình trạng chật vật, thật vất vả mới bình trị được thiên hạn, thất bại nhiều hơn chiến thắng.

-Mệnh thân có Tử vi và Phá quân: Vua gặp phải bầy tôi gian xảo và tham vọng, thành ra yếm thế, bi quan, nhiều khi cũng phải gian tham độc ác theo để tương kế, tựu kế mà sống.

-Mệnh Thân có Tử vi và Thiên Tướng: Vua gặp được tướng giỏi (nhưng hữu dũng vô mưu) cách này là phải luôn chiến đấu (làm sao bắt Thiên Tướng làm việc liên miên, để không còn cơ hội tạo phản) do đó tình trạng phải đa đoạn công việc việc suy gẫm nhiều mưu cơ

-Mệnh Thân có Tử vi và Thiên Phủ: Vua gặp thời thạnh trị, văn thần trung nghĩa, trên dưới hòa thuận nên được hưởng nhiều thanh thản trong đời sống, vừa có tiếng, vừa có miếng.

Nói cách chung, tất cả các yếu tố gọi là sao trên bản số Tử vi, đã sinh hoạt như một cộng đồng nhân loại, có đầy đủ các yêu tính thế tục và thánh thiện vậy.

10 ĐIỀU TÂM NIỆM KHI GIẢI ĐOÁN SỐ TỬ VI

10 ĐIỀU TÂM NIỆM KHI GIẢI ĐOÁN SỐ TỬ VI


LÊ TRUNG HƯNG

Đọc bài của giáo sư Lê Trung Hưng viết về các bí quyết để đóan về cung Mạng của lá số tử vi, quý bạn từng theo dõi KHHB chắc thấy rằng giáo sư Hưng thuộc lò Thiên Lương. Giáo sư Hưng có thể được kể là môn đồ sang giá nhất của cụ Thiên Lương.
Chúng tôi đương sọan bài tóm tắt lại các kinh nghiệm tử vi đã được nêu lên trong năm ngóai trên giai phẩm KHHB thì vừa được bài này, xin đem cống hiến quý bạn đọc. Bài này đã nói trước một số kinh nghiệm mà chúng tôi sẽ khai triển.

I-Tử Vi dưới nhãn quan Huyền Cơ đạo thuật

Khoa học Tử Vi theo truyền thuyết thì phát sinh từ đời nhà Tống (Trung Hoa) và do Trần Đoàn hiền triết phát huy thành hệ thống lý học, để rồi sau đó được các thế hệ nối tiếp vừa đóng góp nghiên cứu, vừa quảng bá nhân gian như một khuynh hướng tiên tri các hoạt động của mỗi con người. Xã hội Á Đông xưa trọng kẻ sĩ hơn hết thảy :

- Dân hữu tử, sĩ vi chi tiên

Mẫu người đại nhân phải hội đủ các yếu tố hơn đời và hơn người qua sự tinh thông nho, y, lý số. Trong khi đại đa số quần chúng lo sinh nhai bằng cách sinh hoạt trên căn bản nông nghiệp, thì giới sĩ phu miệt mài bằng các suy tư nhân linh của đạo học Đông Phương, lấy tĩnh trạng làm căn bản biện chứng cho các động trạng. Hai chiều hướng trái ngược :

- Đa số : Động trạng - Tĩnh trạng
- Thiểu số : Tĩnh trạng - Động trạng

Làm cho khoa lý học Tử Vi trở thành huyền học và tệ hơn nữa là thành đạo thuật mưu sinh của của những " bậc đại nhân nửa chừng xuân " vì tham vọng cho cá nhân. Nhãn quan chung của nhân gian, xưa đến nay một phần bị mê hoặc bởi các thuật sĩ, một phần chịu ảnh hưởng triết lý nhị nguyên của Tây Phương (qua cố gắng nhiệt thành của các quan Tây Phương cai trị thời pháp thuộc), nhìn môn Tử Vi như một kiến thức của óc mê tín, chỉ một vài năm gần đây, giới trí thức mới đang kiếm các phục hồi cho khoa Tử Vi bằng những nổ lực của luận lý, là đem kỹ thuật của Tây Phương giải thích sáng tỏ một phần góc cạnh " áo bí " của khoa học nhân văn này. Trong tinh thần mới ấy, khoa Tử Vi không thể chỉ nghiên cứu bằng những mẫu chuyện truyền khẩu, bằng những câu phú thực nghiệm trải qua thời gian đã bị tam sao thất bổn : mà phải vận dụng tinh thần tinh tế của lý học hiện đại đồng thời vẫn lấy căn bản " dịch lý " của Đông Phương làm nền tảng phán đoán. Nếu ai cũng biết cái tinh hoa của quan niệm " ý tại ngôn ngoại " " của " lời vô ngôn " đẻ ra cung cách của Thuật Zen (Thiền) thì cái tinh túy mềm dẻo và thích nghi của Yoga càng phải nên áp dụng vào khoa Tử Vi để linh động biện chứng những tương quan của các dữ kiện (tạm gọi là sao trên lá số Tử Vi) chi phối đời người.

II-Kỹ thuật tiêu chuẩn để nhận biết lá số Tử-Vi

Trong phạm vi bài tham luận này, bỏ ra ngoài những giai đoạn lập lá số Tử -Vi mà tạm coi như việc hoàn thành lá số có đầy đủ. Người có bản số hãy theo theo dõi các dữ kiện " sao " sau đây :

1- Dữ kiện nghị lực : Sao Thiên Mã.
2- Dữ kiện sinh tồn :các sao vòng Tràng Sinh.
3- Dữ kiện hưng thịnh : các sao vòng Lộc-Tồn.
4- Dữ kiện tính khí : các sao vòng Thái Tuế.
5- Dữ kiện thời vận : các sao Tuần và Triệt.
6- Dữ kiện bẩm chất : các sao Thiên Không, Đào Hoa, Hồng Loan.
7- Dữ kiện hoạt động : các sao Vòng Mệnh và vòng Thân.
8- Dữ kiện thú tính : các sao Địa Không, Địa Kiếp, Đà La, Kình Dương, Hỏa-Tinh, Linh-Tinh.
9- Dữ kiện phù trợ : các sao Tả-Phù, Hữu-Bật, Lực Sĩ, Bác-Sĩ, Hóa Quyền, Hóa Khoa.
10- Dữ kiện ma thuật : Mệnh vô chính diệu.

Ngoài các dữ kiện sao vừa nói, ta hãy nói sơ lược lại nền tảng phối hợp ngũ hành, để thích nghi luận lý :

a- Tương sinh : Mộc-Hỏa-Thổ-Kim-Thủy-Mộc.
b- Tương khắc: Mộc-Thổ-Thủy-Hỏa-Kim-Mộc.
c- Bình Hòa : Thổ gặp Thổ (dù là loại Thổ gì cũng vậy)
d- Bất cập : Hỏa gặp Hỏa (dù là loại Hỏa gì cũng vậy)
e- Thái quá : Thủy gặp Thủy (dù là loại Thủy gì cũng vậy)
f- Phát triển :Kim gặp Kim và Mộc gặp Mộc.

Có nhiều sách ghi thêm tính chất của nhiều loại Thổ, nhiều loại Hỏa để cố gắng phân tích sự tiết giảm xung đột hay tăng thêm hòa hợp; điều này có phần biện bác để an ủi cho những người gặp cảnh ngộ xấu hoặc là tâng bốc những người ưa nghe điều tốt mà thôi. Vì đã ở thế cùng hành tất phải ở tình trạng ngưng đọng hơn là ảnh hưởng với nhau (lý thuyết nhất nguyên tính trạng) Do đó, chủ ý của bài viết này là nhằm cái biến dịch của ngũ hành trên 12 cung số của bản số Tử Vi mà luận giải.

III- Sao Thiên Mã

Người Đông Phương ưa cảm thông sự vật hơn phát biểu sự vật nên việc dùng từ ngữ chỉ có ý nghĩa tượng trưng (chứ không có tính cách mô tả chủ quan như Tây Phương) cho nên dữ kiện được gọi là " sao Thiên Mã " chỉ nên hiểu là cái nghị lực của con người trong bản số Tử Vi. Tùy theo vị trí của 4 cung : Dần, Tỵ, Thân, Hợi mà sao Thiên Mã đóng, ta hiểu như sau :

a- Thiên Mã ở cung Dần : đứng ở cung Mộc rất hợp với người mạng Mộc bạc nhược với người mạng Kim, vất vả với người mạng Thủy, làm hại người mạng Thổ, làm lợi người mạng Hỏa.

b- Thiên Mã ở cung Tỵ : đứng ở cung Hỏa rất hợp với người mạng Hỏa, làm lợi người mạng Thổ, vất vả người mạng Mộc, làm hại người mạng Kim, bạc nhược với người mạng Thủy.

c- Thiên Mã ở cung Thân : đứng ở cung Kim rất hợp với người mạng Kim, làm lợi người mạng Thủy, vất vả người mạng Thổ, làm hại người mạng Mộc, bạc nhược với người mạng Hỏa.

d- Thiên Mã ở cung Hợi : đứng ở cung Thủy rất hợp với người mạng Thủy, làm lợi cho người mạng Mộc, vất vả với người mạng Kim, làm hại người mạng Thổ.

IV- Vòng Tràng Sinh

Vòng Tràng sinh có 12 sao đóng đủ trên 12 cung Tử Vi, ý nghĩa của vòng sao này ta nên coi là dữ kiện sinh tồn của đương số, do đó, khi cung an Mệnh, cung Phước đức (tiền kiếp) và cung Tật Ách (hậu kiếp) có những sao cùng hành với bản mệnh thì luận ra tính cách thọ, yểu, mạnh, khỏe, hay đau yếu :

a- Đối với saoTràng Sinh (là Thủy) Cung Mệnh sinh sao, sao sinh bản Mệnh là đắc cách. Thí dụ : Người hành Mộc, mệnh an tại Dậu (Tuổi Âm Nam, Dương Nữ) thuộc Kim có các Sao Trường Sinh là Thủy (Kim-Thủy) sao Trường sinh sinh ra hành Mộc. Cung Mệnh sinh sao, sao khắc bản mệnh là sống không khỏe mạnh. Cung Mệnh khắc sao, sao sinh bản Mệnh bất đắc kỳ tử. Cung Mệnh khắc sao, sao khắc bản mệnh : chết non.

b- Đối với sao Thai (Thổ) thì cần phải đóng ở cung Phúc Đức để chứng tỏ tiền kiếp đã kết tụ tinh anh, phát kết ra kiếp hiện tại, thì lý tự nhiên cuộc sống phải bền, để ý nghĩa của " Thai " hiện hữu như một căn bản không phản hồi được. Trường hợp này, cung Mệnh có sao Mộ, cung Quan có Trường Sinh, Cung Tài có Đế Vượng, (ngu si hưởng thái bình!?)

c- Đối với sao Đế Vượng (là Kim) cần phải tụ hội ở cung Tật ách (hậu kiếp) để minh chứng ngày ra đi sang kiếp sau được tiếp đón như một thành tích vẻ vang tuyệt đỉnh (vì trong chu kỳ sinh thái của Vòng Tràng-Sinh, thì giai đoạn Đế Vượng coi như điểm cực đại của hàm số Parabole, biểu diễn vòng luân hồi của con người). Trường hợp này là người có sao Tuyệt ở cung Mệnh (khôn ngoan ở đời)

V- Vòng Lộc Tồn

Sống ở đời, người ta ai cũng cần có phương tiện thuận lợi tối đa để hưởng hạnh phúc (dù là hạnh phúc tạm), nên trong khoa Tử-Vi có vòng sao Lộc Tồn được coi là những dữ kiện của sự hưng thịnh. Vòng Lộc Tồn cũng có 12 sao an đủ 12 cung trên bản số. Tuy nhiên ta lưu ý 4 cung : Dần, Mão, Thân, Dậu nhiều nhất :

a- Tuổi Giáp : Lộc tồn ở Dần.
b- Tuổi Ất : Lộc tồn ở Mão
c- Tuổi Canh : Lộc tồn ở Thân.
d- Tuổi Tân : Lộc tồn ở Dậu.

Cho nên, những người sanh năm Dần-Ngọ-Tuất mà tuổi Giáp (Giáp Dần, Giáp Ngọ, Giáp Tuất) thì hưởng cái lộc này lâu dài (đúng nghĩa Lộc tồn) những người tuổi Ất Mão, Ất Hợi và Ất Mùi; Canh Thân, Canh Tý và Canh Thìn; Tân Tỵ, Tân Dậu, và Tân Sửu cũng được hưởng may mắn nói trên. Kỳ dư các tuổi khác nếu, cung Mệnh, cung Quan hoặc cung Tài mà có Lộc tồn, thì Lộc tuy có nhưng không tồn được (hưởng trong giai đoạn ngắn mà thôi !? )

VI- Vòng Thái Tuế

Có lẽ đây vòng sao hệ trọng nhất đối với người nghiên cứu khoa tử vi lý học . Bởi vòng này diễn tả cái tính khí, phẩm hạnh của đương số cũng như nó cho biết cái chu kỳ thăng trầm của cuộc đời . Cho nên ta phân 12 sao của ngũ hành là :

- Dần Ngọ Tuất : Hành Hỏa
- Tỵ Dậu Sửu : Hành Kim
- Hợi Mão Mùi : Hành Mộc
- Thân Tý Thìn : Hành Thủy

Thành ra 4 nhóm mệnh danh như sau :
a-Nhóm chánh phái : Thái tuế, Quan Phù, Bạch Hổ.
b-Nhóm tả phái : Tuế Phá, Điếu Khách, Tang Môn.
c-Nhóm thiên hữu : Long Đức, Thiếu Âm, Trực Phù.
d-Nhóm thiên tả : Thiếu dương, Tử Phù, Phúc Đức.

Cung An Mệnh thuộc nhóm nào, thì giúp ta nhìn thấy cái cá tính chung của đương số ngay, Ví dụ như :

- Những người tuổi Dần, Ngọ, Tuất, cung Mệnh, cung Quan Lộc và Tài Bạch cũng đóng ở 3 cung Dần, Ngọ, Tuất (có nhóm chánh phái đóng) thì là những người đảm lược, lương hảo, anh hùng.

- Những người tuổi Tỵ, Dậu, Sửu có 3 cung Mệnh, Quan và Tài đóng ở 3 cung Tỵ, Dậu, Sửu (có nhóm chánh phái đóng) thì hiển hách hơn người, được kính nể;

- Ta tiếp tục lý luận như trên cho các người tuổi Thân, Tý, Thìn. Mệnh, Quan và Tài cũng đóng Thân, Tý, Thìn. Những người tuổi Hợi, Mão Mùi mà 3 cung Hợi, Mão, Mùi đều là chánh phái cả. Cộng thêm các dữ liệu sao có trong bản số của đương số thì kết luận thêm cho chính xác.

Giai đoạn tuổi ở 1 trong 3 cung của nhóm: Thái Tuế-Quan Phù-Bạch Hổ, đều là thời vận tốt nhất cho người có lá số tử vi. Khi cung Mệnh của của bản số tử-vi thuộc nhóm tả phái đó là người bất mãn, lang bạt và đau khổ. Cung Mệnh thuộc nhóm thiên hữu là người bẩm chất hiền lành nhưng nhu nhược, cung Mệnh thuộc nhóm thiên tả, là người khôn vặt, lanh lợi những chuyện tầm thường.

VII- Luật của sao TUẦN & TRIỆT

Kiếp nhân sinh ví như cái xe lăn trên đường đời, Sao Triệt được coi như cái Thắng đầu của xe, còn sao Tuần coi như bộ thắng sau của xe. Thắng đầu cần mới nguyên, rất hữu hiệu trong việc cản bánh xe lăn (đôi khi còn tạo ra nguy hiểm ! làm cho xe lật) nên dưới 30 tuổi ảnh hưởng của sao Triệt thật đậm đà. Sao Tuần ít bộc phát ảnh hưởng rõ rệt, nhưng lại bền vững suốt đời người (thắng của bánh xe sau tác dụng điều hòa tốc độ của xe chạy). Luật hóa giải TUẦN-TRIỆT được đặc biệt cho những ai có bản số Tử vi mà cung Mệnh bị một trong hai sao Triệt và Tuần trấn đóng, thì đi đến giai đoạn cung có sao còn lại đóng, là vận hên đã tới.

Thí dụ : Mệnh đóng tại Tỵ có sao Triệt, cung Phúc đức có sao Tuần , vậy đi đến giai đoạn cung Phúc đức thì phát huy được danh phận (dù không thuộc vòng Thái Tuế-Quan Phù-Bạch Hổ). Lý giải điều này cũng tự nhiên. Vi khi xe chạy mà người tài xế điều hành được hai bộ thắng thì tất nhiên phải an toàn bảo đảm như ý muốn.

VIII- Bộ ba Thiên Không, Đào Hoa và Hồng Loan

Người biết coi Tử vi, ai cũng biết :Thiên Không (Hành Hỏa), Đào Hoa (Hành Mộc) và Hồng Loan (thuộc hành Thủy). Bản chất của Hỏa Tinh là tàn phá, là gieo rắc tai ương (Thần chiến tranh) : cho nên khi ba cung Mệnh, Quan và Tài của bản số tử vi có :

a- Thiên Không, Đào Hoa nghĩa là Mộc dưỡng hỏa, để Hỏa tàn phá thêm mạnh dạn, thêm khốc liệt, ý tượng trưng cho sự khôn ngoan quá quắt của đương số. Người có cách này là mẫu người muốn chiếm đọat, muốn lấn tới để ăn người.

b- Thiên Không Hồng Loan : Nghĩa là lửa đã bị Thủy trấn áp, bó tay qui hàng, nên cung Mệnh có cách này là mẫu người thoát tục, thích cảnh tịnh hơn cảnh động.

c- Thiên Không độc thủ (ở Thìn-Tuất-Sửu-Mùi có Hồng Đào chiếu) bụng dạ thất thường người Âm Nam, Âm Nữ là lửa ngầm, người Dương Nam, Dương Nữ là lửa bùng : tất cả đều thủ đoạn vặt hoặc không bộc lộ hoặc phát tiết ra ngòai.

IX- Vòng Mệnh và Vòng Thân

Căn cứ của Luật Tam hạp :
- Dần Ngọ Tuất là Hỏa.
- Thân Tý Thìn là Thủy.
- Hợi Mão Mùi là Mộc.
- Tỵ Dậu Sửu là Kim.

Thì khi cung an Mệnh đứng ở vị trí nào so với vòng Thái Tuế, ta phải nhìn thế tam hợp của cung an Mệnh như Vòng tha nhân đối với Vòng bẩm tính đương số là vòng Thái Tuế tam hợp của cung an Thân là Vòng hành động của đương số. Biện chứng qua Luật ngũ hành tiêu-trưởng, ta vạch trần được tác phong đường số một các dễ dàng.

Ví dụ : Người tuổi Tỵ (Vòng Thái Tuế là Tỵ-Dậu-Sửu : Kim), cung an Mệnh đóng ở Tuất (Vòng tha nhân là Dần-Ngọ-Tuất : Hỏa), cung an Thân ở Tý (Vòng hành động là Thân-Tý-Thìn : Thủy). Ta lý giải ngay : số người này là mẫu người ra đời bị người ta chèn ép (do Hỏa khắc Kim), chịu nhiều thua thiệt, vất vả (vì Kim sinh Thủy)


X- Nhóm hung tinh chiến lược

Ta gọi là hung tinh chiến lược, vì các sao Địa không, Địa Kiếp, Đà La, Kình Dương, Hỏa Tinh, Linh Tinh, có những bộ mặt thú tính man dã nhưng hóa giải được khi điều hướng đúng chỗ.

a- Hai sao Địa Kiếp, Địa Không khi đứng trong nhóm tam hợp của vòng Thái Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ, thì dù đắc địa (Tỵ, Hợi) hay hãm địa, cũng vẫn mất hiệu lực phá hại của nó, để trở nên ý nghĩa của người có tài mà không có thời. Mặt khác, nếu đương số thuộc hành Thổ thì đã làm cho tính chất Hỏa của Không Kiếp bị tiết khí : nên vẫy vùng yếu kém hẳn.

b- Hai sao Đà La đóng ở Dần Thân Tỵ Hợi và Kình Dương đóng ở tứ mộ (Thìn Tuất Sửu Mùi ) lại có Vòng Thái Tuế ở đây thì không còn là sao tác họa mà trở thành bộ " hồi chánh tinh " đới công chuộc tội, phát võ hiển vinh, vượng phu ích tử.

c- Hai sao Hỏa tinh, Linh Tinh cũng là bộ Hỏa-Linh. Nếu đứng trong vòng Thái Tuế thì tạo thành những cái thất bại anh dũng của đương số. Người có cách này, dù " khí thiêng đã về thần" cũng được người đời kính nể khâm phục. Nói cách khác: Đấy là cách của người " Sinh thọ tử bất ninh thọ nhục "

XI- Bộ sao phò trợ

Quan niệm " phù thịnh không phù suy " là ý nghĩa của các nhóm sao phù trợ : Tả Phù, Hữu Bật, Lực Sĩ, Bác Sĩ, Hóa Quyền ... Nếu các vòng sao này
lọt vào trong vòng Thái Tuế, thì đúng là những " lương đống công thần " giúp cho đương số thăng tiến thành đạt ở đường đời, bằng trái lại, chúng nhảy sang vòng Tuế Phá, Điếu Khách, Tang Môn (nhóm tả phái), thì chẳng khác nào thả cọp về rừng, sức tán hại càng phát triển, làm cho đương số trăm chiều vất vả (Đặc biệt nếu cung Mệnh có cách này, mà vòng Thái Tuế không tam hợp với cung Mệnh, thì rõ ràng là loại Hoàng Sào thảo khấu, ác bá côn đồ). Nhớ đây chỉ là cái chung nhất cần phải kết hợp thêm các dữ liệu sao trong bản số Tử-vi để mà diễn giải thì mới có kết luận thêm chính xác tới mức độ nào.

XII- Mệnh vô chính diệu : cách số của ma thuật

Nói chung những người có cung Mệnh vô chính diệu, thường là mẫu người sắc sảo, quyền biến có nhiều cảm ứng bén nhạy hơn người có chính diệu thủ cung Mệnh. Xem số Tử-vi những người Mệnh vô chính diệu rất khó, vỉ độ chuyển biến của các dữ kiện "sao" rất "Sensible" nghĩa là có cách số ma thuật huyền hoặc nhất. Càng nhiều hung tinh, bại tinh đắc địa tọa thủ Mệnh, càng có lợi cho đương số. Tuy nhiên vẫn cần vòng Thái Tuế tam hợp với cung an Mệnh hoặc cung an Thân để có thể hướng cái chánh nghĩa về cho nhóm ác tinh này, bằng không thì đương số sẽ trở thành những hồ ly tinh tu luyện thành người, bản tính dã thú ... khó phân biệt (!?) sẽ tạo ra những nghiệp ác để rồi đền tội một cách mau chóng (chết yểu).

XIII- TỔNG LUẬN

Nếu nắm vững mười dữ kiện căn bản nêu trên, lẽ tất nhiên khoa Tử-Vi không còn là bí truyền ân sủng cho một riêng ai; tất cả chỉ còn là toàn những tương quan ngũ hành sinh khắc hoặc chế hóa, chỉ còn là những lý giải minh bạch cho các dữ kiện được gọi là "sao" của bản số Tử-vi mà nhãn quan của con người nghiên cứu luôn luôn phải khách quan một cách thành khẩn.

Khoa lý học này sẽ có một ngày cởi bỏ cái " áo bí " của nó, để trở thành một khoa nhân văn chứa đựng tính thiện ác và thái độ vô cầu của người thâm cứu./.

1001 CHUYỆN VUI TỬ VI * Tham Lang cư Thê * Liêm, Tham Tị, Hợi * Đào, Hồng, Hình, Riêu

1001 CHUYỆN VUI TỬ VI

* Tham Lang cư Thê
* Liêm, Tham Tị, Hợi
* Đào, Hồng, Hình, Riêu


PHONG NGUYÊN

Trong KHHB Xuân Quý Sửu tôi đã có dịp kể vài câu chuyện về tử vi và nay nhân dịp Xuân Giáp Dần, tôi xin tiếp tục đưa ra một số kinh nghiệm về tử vi dưới hình thức những mẫu chuyện có thực để quý bạn vừa giải trí vừa ôn luyện tử vi

1. Tham Lang cư Thê

Tối phải thú thựa với quý bạn là tôi luôn luôn thành kiến xấu về cung Thê có Tham Lang, và do đó ôi đã chê sao này trong bài “Tìm hiểu phụ nữ qua tử vi”, đang trên KHHB mới đây, mặc dầu tôi vẫn hiểu rằng, về tử vi không bao giờ nên đặt ra một định lệ cố định. Đó cũng chỉ vì tôi đã gặp quá nhiều trường hợp rõ rệt mà sau đây tôi xin nêu ra hai “ca” điển hình

a- Một lần có người bạn giới thiệu một sĩ quan (hiện là đại úy trong QLVNCH) để nhờ tôi coi dùm về công danh, sự nghiệp. Thường thường dù lá số có giờ sinh chính xác tôi vẫn nêu ra vài chi tiết nổi bật nhất để xem xét có đúng giờ sinh hay không? Cho nên đối với lá số của vị sĩ quan này vì tôi thấy cung Thê dễ đóan nhất (có Tham Lang cư Dần hội Địa Kiếp, Lộc tồn), tôi liền hỏi thẳng đương số có phải có người vợ chỉ nghĩ đến tiền trước hết chứ chẳng có tình nghĩa gì phải không? Vị sĩ quan đó tỏ vẻ khó chịu và nói rằng chỉ cần hỏi tôi về công danh sự nghiệp chứ còn vấn đề vợ con chẳng có gì thắc mắc. nhưng tôi vẫn cứ nhấn mạnh điểm đó để kiểm sóat giờ sinh, và lúc đó đương sự bảo rằng chắc giờ sinh trật , như vậy khỏi cần coi tiếp. rồi sau vài ba câu xã giao, đương sự cùng người bạn tôi ra về, còn tôi cũng chẳng thắc mắc gì nữa vì yên trí giờ sinh sai rồi. thế rồi ngay tối hôm đó đương sự mò tới nhà tôi một mình và vội vàng thú thực với tôi qua vẻ mặt đau buồn là vợ đương sự, quả thực bê bối như tôi đã đóan. Hơn nữa đương sự còn cho biết là đương sự đang muốn li dị với vợ mà không dám thổ lộ tâm sự cùng ai, vì cho đó là điều nhục nhã xấu xa, do đó trước mặt người bạn tôi dù là thân thiết, đương sự vẫn không chịu nói thật (có lẽ vì phải giữ uy tín trong vấn đề làm ăn chăng) và ngay đối với cả tôi đương sự cũng còn giấu diếm luôn, nhưng về sau suy nghĩ thấy cần phải dựa vào tử vi để tìm phương pháp giải quyết nên đương sự mới tìm đến tôi. Đương sự còn tâm sự thêm là người vợ tuy làm ăn khá giả mà mỗi tháng cho mẹ ruột một hai ngàn đồng còn thấy tiếc, chỉ muốn rút bớt đi khiến cho đương sự phải can ngăn. Ngòai ra, đương sự có tiền phải giấu riêng hoặc phải gửi vào trương mục riêng của mình vì sợ vợ chiếm đọat hết. vì vậy đương sự chỉ muốn xin li dị và do đó phải nhờ đến tử vi. Thực ra đương sự không có chủ đích hỏi về công danh sự nghiệp mà chính ra chỉ thắc mắc về vấn đề hôn nhân, hạnh phúc vợ chồng nhưng vì tự ái và danh dự đương sự phải nói tránh ra như vậy đó thôi. Và khi đương sự gặng hỏi có thể li dị được không? Tôi không dám trả lời dứt khóat ngay mà đành bảo đương sự cho coi lá số của người vợ và của một người con rồi mới dám quyết đóan. Sau khi xem kỹ lá số này rồi, tôi quả quyết là không thể li dị được, và cho tới bây giờ đương sự vẫn chưa thực hiện được, chẳng biết về sau này ra sao. Vì danh dự của đương sự tôi giấu ngày giờ, năm tháng sanh của đương sự.

Qua mẫu chuyện trên đây quý bạn thấy Tham Lang cư Thê (nhất là ở Dần Thân) ứng với câu “Gái bạc tình Tham Sát Dần Thân” (có sách nói là nhàn cung), lại còn có Địa Kiếp thành ra xài hết nổi. Còn Lộc Tồn tuy gọi là chân nhân chi tú, nhưng đi với Tham Lang, Địa Kiếp lại trở nên quá lý tài, vụ lợi, ích kỷ, tuy kiếm ra tiền được khá giả do khả năng. Ngòai ra, tại sao tôi quả quyết là không li dị nổi? Đó chỉ vì lá số của người vợ lại quá truyền tin với người chồng (nhất là các sao xấu như Tham Lang, Địa Kiếp) và các con cái cũng truyền tin với cha lẫn mẹ cho nên mới có sự ràng buộc chặt chẽ. Thành ra người vợ trở thành “của nợ” đeo đẳng mình suốt đời.

b- Đây là trường hợp thứ nhì về Tham Lang cư Thê:Tôi chỉ xin nói sơ qua về lá số của đương sự là Mệnh cư Dần có Vũ Tướng đồng cung. “Thân” cư Quan có Tử Vi cư Ngọ. Thê có Tham Lang cư Tý hội Đào Hồng, Thiên Không. Đương số là một người hàng xóm rất thân thiết với gia đình tôi nen tôi có dịp theo dõi cuộc sống của đương sự cũng như biết rõ đời tư của đương sự. Sauk hi đương sự lập gia đình là tôi bắt đầu theo dõi hạnh phúc của đương sự có bị Tham Lang “hành” không? Chính đương sự cũng biết về tử vi nên đương sự cũng e ngại về cung Thê có Tham Lang và để tự an ủi đương sự bảo rằng ‘Tham Lang cư Thê, nghi cầu trưởng nữ” chứ đâu có gì đáng sợ (đương sự có lấy người con gái lớn nhất trong gia đình thật). Thế rồi độ năm sau năm sau, người vợ bắt đầu “đổ đốn” tới mức không thể tưởng tượng được vừa hại chồng, vừa lăng loan ngọai tình, mà tôi không tiện nêu ra chi tiết để khỏi làm buồn lòng đương số. Vì vậy đương số đã thương một người con gái khác và đi tới sống chung thực sự, có con với người này nữa. Nhưng khổ thay chỉ độ một thời gian ngắn, về sau đương số cho tôi biết là vợ sau còn tệ hại hơn nữa. Và hiện nay đương số đã có một ‘bà” thứ ba rất nết na, thùy mị, đoan trang được nhiều thầy tướng coi mặt và khen hết mình.

Đọc đến đây chắc quý bạn hơi thắc mắc là tại sao cung Thê như vậy mà cuối cùng lại có vợ tốt. Tôi xin trả lời ngay rằng nhờ cung Nô bộc rất tốt (vì cư ngay cung tuổi và có Tả Hữu hội chiếu nhiều sao tốt) cho nên ứng vào thứ thiếp đàng hòang, nết na, đắc lực, đảm đang. Nhưng tôi nghĩ rằng người vợ thứ ba này chỉ tốt khi hai người chung sống với nhau bán chính thức, nghĩa là chưa có hôn thú, chứ còn khi đã chính thức hóa cuộc hôn nhân thì sao Tham Lang tại cung Thê lại có dịp họat động. Tuy nhiên, điều này thuộc về tương lai chưa thể biết có ứng nghiệm hay không.

Nói tóm lại qua hai mẫu chuyện trên đây, mỗi khi quý bạn gặp trường hợp cung Thê có Tham Lang, Địa Kiếp, Đào Hồng… (là một trong những cách tôi chê nhất), quý bạn cần chú trọng tới cung Nô Bộc để xem có vớt vát được vấn đề hạnh phúc hôn nhân hay không? Ngòai ra nếu có thể được cầm xem có truyền tin hay không để quyết đóan về vấn đề có thay đổi được cuộc sống vợ chồng không. Trường hợp trên nếu không truyền tinh là may, còn ngược lại ráng mà … chịu.

2. Liêm-Tham Tỵ Hợi

Ai học tử vi mà chẳng biết câu “Liêm Tham Tỵ Hợi hình ngục nan đào”, cũng chỉ vì câu này khiến tôi phải chú tâm nghiên cứu tử vi và đã thắc mắc nhiều nhất về sự chính xác của khoa tử vi. Tôi còn nhớ hồi tôi mới biết sơ qua về tử vi, tôi có được coi khá nhiều lá số có Liêm-Tham Tỵ, Hợi và nghiệm thấy có vài trường hợp rất đúng, nhưng lại có nhiều trường hợp sai hẳn, mặc ầu giờ sinh đúng, vì có người bị tù lên tù xuống nhưng có người chẳng bao giờ biết một ngày giam giữ. Vì vậy tôi rất bực mình và bèn làm mộ “collection” riêng về các lá số có Liêm Tham Tỵ Hợi, rồi khi thấy ai bị tù tội, giam cầm là tôi viết ngay một chữ “Tù’ duy nhất thật to trên lá số của đương số, để chiêm nghiệm riêng về khía cạnh đó chứ chẳng hề chú ý với điểm khác. Thế rồi một hôm, vì sơ ý để “râu ông này cắm cằm ba kia”, tôi đã viết chữ “Tù” lên trên một lá số của người bạn thân chưa hề bị giam giữ. Và nếu chỉ có thế thôi thì đâu có sao, nưng khổ một nỗi là tôi đã để người bạn đó thấy khi anh ta đến chơi, khiến anh ta cứ tưởng tôi biết chắc là anh thế nào cũng bị tù nên mới viết chữ to như thế trên lá số. Phải chi anh hỏi tôi thì cũng dễ giải thích, nhưng anh đã làm thinh để trong lòng và từ đó vẻ mặt luôn đăm chiêu, chẳng dám họat động, làm gì cả mặc dù anh ta có bằng cấp cao, có tài năng đến nỗi sau một năm trông anh già hẳn đi và đùng một hôm tôi được tin anh ta bị giam giữ vì bị nghi oan gì đó. Khi ấy tôi vội vàng mở lá số của anh tar a coi thì thấy đã có sẵn một chữ “Tù” to tướng ghi trên lá số anh ta. Tuy tôi biết mình đã biên lộn nhưng thấy ngẫu nhiên ứng nghiệm, tôi đâm ra mê tín cho rằng đó là cái điềm xấu cho anh.

Nhờ sư tập nhiều lá số Liêm-Tham Tỵ, Hợi và sau khi tham khảo nhiều vị tử vi cao thâm, tôi xin trình bày cùng quý bạn về khía cạnh này:

- Trước hết tôi cần nói rằng Liêm-Tham Tỵ, Hợi chủ về người ưa thích mạo hiểm, ưa làm liều, rất can đảm, thích đảm trách hoặc hay phải đảm trách những chuyện bí mật rắc rối, làm việc gì cũng mau mắn lanh lẹ, quả quyết, và những đặc tính này người có Liêm-Tham Tỵ, Hợi dễ bị vướng vào vòng pháp luật, hoặc nghi oan, liên lụy, nhưng còn phải tùy thuộc các sao phụ mới có thể quyết đóan như vậy được. Ngòai ra tôi xin nói thêm (điểm này không ăn nhằm gì với tù tội) để quý bạn tùy nghi áp dụng, là người Liêm – Tham Tỵ, Hợi còn hay có năng khiếu về máy móc, điện khí hoặc về ngành tư pháp (như Luật sư, thẩm phán) nếu có thêm các sao khác bổ túc.

- Vì những đặc tính trên, muốn tránh được tù tội. Liêm-Tham cần xa lánh được Cô Thần, Quả Tú, Thiên Hình, Không Kiếp, Kình Đà, Tuế Phục. Nếu gặp đủ hết các sao này thì quả thực câu phú trên rất đúng. Có nhà tử vi sợ Hóa Kỵ, Thiên Không đồng cung với Liêm Tham nhưng thực ra hai sao này đồng cung lại giải được hết sự xấu xa, tù tội. Ngòai ra, nếu Liêm Tham lại gặp được Tả Hữu, Lộc Tồn thì thực là rất hay (chưa cần thêm các sao tốt khác), nghĩa là sẽ trở thành một người nổi bật trong quần chúng về tài năng, chứ không hẳn về bằng cấp, văn hóa.

- Nếu chỉ có Liêm-Tham Tỵ Hợi không thôi, nghĩa là tránh được các sao xấu kể trên và cũng không có cách nào tốt phụ thêm, thì người đó chỉ làm được những chuyện về chân tay như thợ máy, thợ mộc … và không đảm đương được việc quy mô, rộng lớn, còn việc tù tội, tuyệt nhiên không có gì ứng nghiệm.

3. Đào Hồng, Hình, Riêu

Qua câu chuyện tôi sắp kể dưới đây, tôi nhận thấy rằng, về tử vi nếu chỉ biết lơ mơ không những chẳng có ích gì mà có khi còn bất lợi cho mình. Đó là trường hợp một anh bạn tôi như sau:

Anh ta mới học tử vi được vài tháng nhưng lúc nào cũng tự cho mình là thấu triệt về tử vi vì của đáng tội anh rất thong minh và nhớ dai, các câu phú anh thuộc làu làu, nhưng về phần kinh nghiệm thì đương nhiên chưa có gì. Khi anh ta tới tuổi lập gia đình (đây tôi nói hồi anh còn niên thiếu trẻ trung) anh rất kén chọn ý trung nhân vì dù sao anh cũng nhiều tài năng, bằng cấp cao lại đẹp trai thì thiếu gì gái theo đuổi, ưng chịu. Thế rồi anh để ý một thiếu nữ còn đang đi học (Trung Học) rất duyên dáng, dễ thương và đoan trang nết hạnh, và anh đi tới chỗ yêu thương say đắm, nhưng khổ một nỗi khi xem tử vi cho nàng anh lại đâm ra thất vọng và lần lần đi tới chỗ chán chường. Tôi lấy làm lạ hỏi anh và anh tâm sự rằng anh không dám tiến tới hôn nhân với cô ta, vì thấy cung Mạng “Thân” (cư Tài) có đủ cả Đào Hồng Hình Riêu lại thêm Xương Khúc, Tả Hữu thì chắc là hư đốn lắm. Anh còn lý luận thêm rằng nếu không chạm vào câu phú “Hình Riêu phận gái long đong” thì cũng vướng vào câu “Đào Riêu số gái ai hay, chồng ra khỏi cửa, dắt tay trai vào”, tuy các sao ấy không đồng cung thì ảnh hưởng nhẹ đi.

Sau khi nghe anh bạn tôi lý luận về tử vi như vậy, tôi cũng e dè vì hồi đó tôi cũng chỉ là tay “ăn dong” và khoa này, cho nên tôi đành làm thinh tuy trong thâm tâm chưa đồng ý mà còn nghĩ rằng cô ấy không hư hỏng mà còn có thể giúp ích cho chồng bằng khả năng của mình. Hơn nữa cứ theo cách thức ăn nói và hình dáng của cô ta, dù cho người không biết coi tướng mặt cũng phải công nhận cô ta đoan trang nết hạnh. Tuy vậy tôi vẫn không dám khuyên anh bạn tôi tiến tới, vì sợ có chuyện gì ngang trái, đổ vỡ xảy ra thì mình đâm ra ân hận.

Độ chừng 5 năm sau, tình cờ tôi gặp lại người vợ hụt của anh bạn tôi và được biết cô ta học được dở dang rồi xoay sang học giải phẫu thẫm mỹ và sửa sắc đẹp. Ngòai ra cô còn cho biết đã lập gia đình, chồng làm bác sĩ và rất hạnh phúc, gián tiếp chứng tỏ cô ta không có gì trắc nết hoặc hại chồng: trái lại cô ta rất đác lực với chồng về phương diện tài chính, cũng như quán xuyến việc nội trợ. Và sau khi gặp cô, tôi vội đến nhà của anh bạn tôi để nói rõ sự thực cho anh tat ha hồ tiếc rẻ, nhưng ai ngờ chính anh bạn tôi cũng mới gặp cô ta và định chạy lại nhà tôi tâm sự về chuyện đó, đồng thời thảo luận với tôi về tử vi trên khía cạnh đó. Với gương mặt thơ thẩn anh tỏ ý hối hận và luyến tíêc người đẹp thủa xưa đồng thời mạt sát khoa tử vi quá cỡ. Khi ấy tôi đã tiến bộ nhiều về tử vi và hơn nữa thấy được thực tế đã bày tỏ trước mắt, nên tôi liền lên tiếng bênh vực tử vi và nói với anh ta rằng Đào Hoa, Hồng Loan cư Tài Bạch (có cả “Thân” đóng ở đó) ứng vào việc mưu sinh bằng mỹ thuật như họa sĩ, hỉai phẫu thẫm mỹ, hoặc sửa sắc đẹp; Xương-Khúc chứng tỏ có ăn có học đàng hòang về ngành chuyên môn chứ không phải chỉ làm quen tay; Tả - Hữu thì chủ về giúp ích cho đời và nếu phụ trách về sửa sắc đẹp thì cũng là một cách giúp đời: Thiên Hình ứng cho dao kéo, giải phẫu; Thiên Riêu-Thiên Y tượng trưng cho thuốc men dung trong khi giải phẫu hoặc sửa sắc đẹp. Ngòai ra tôi còn nhớ lá số của cô ta có Khoa, Quyền, Lộc nữa thì làm sao bê bối được, chỉ khổ một nỗi là sự việc đã xảy ra rồi mà có lý luận hay cách mấy, cũng bị bạn tôi cho là nói dựa. Nhưng dù sao đó cũng là một cách học tử vi, phải không quý bạn?

oOo

Tôi xin chấm dứt bài hôm nay nơi đây và hi vọng KHHB được trường tồn để tôi có dịp hầu chuyện quý bạn qua Xuân năm tới, vì những chuyện về tử vi có thực còn rất nhiều. Sau hết nhân dịp Xuân về, Phong Nguyên tôi xin chúc quý bạn và gia đình một năm mới hòan tòan hạnh phúc.

SAO KHÔNG PHẢI LÀ SAO - Ân Quang

SAO KHÔNG PHẢI LÀ SAO - Ân Quang

Tinh, Diệu, Thần

Tử Vi không phải là một khoa chiêm tinh thuần túy. Vẫn biết rằng khi tính Tử Vi phải xét đến trên một trăm vị sao, nhưng cũng còn phải xét đến các yếu tố khác như Âm Dương, Bát Quái, Ngũ Hành sinh khắc... Vì thế, có thể quan niệm Tử Vi là một "Vũ trụ luận"

Luận về sự tương quan của tất cả các yếu tố trong vũ trụ ảnh hưởng đến con người. Các vị "sao" chỉ là một trong nhiều yếu tố. Vì vậy mà trong Tử Vi, có một số tên gọi không phải để chỉ vào một "ông sao" nào.

Thí dụ như Thiếu Âm, Thiếu Dương là để chỉ về một khí lực trong vũ trụ trong Tứ tượng (Thái Âm, Thiếu Dương, Thái Dương, Thiếu Âm, Âm tiêu Dương trưởng) chứ nào có phải để chỉ vào một "ông sao" Thiếu Dương, Thiếu Âm.

Lại thí dụ như Thanh Long, không phải là tên gọi một "ông sao" Thanh Long, mà để chỉ về một khí vận, khí lực chung của một chòm sao, tính cách của khí vận ấy được đặt tên là Thanh Long. Ví như trong Tử Vi Tây Phương, Hải Sư không phải là một "ông sao" Hải Sư. Mà đó là cái khí lực khí vận của một chòm sao. Khí vận, khí lực ấy được đặt tên là Hải Sư, chứ nào có một ông sao Hải Sư.

Tư nhiều năm nay tôi đã gắng công sưu tầm tài liệu để lập một bản "Thiên Đồ" gồm đầy đủ các vị sao để so sánh với các tên gọi trong Tử Vi. Các tài liệu mà tôi thu thập được, tuy chưa đầy đủ cho lắm, nhưng khả dĩ giúp tôi tin chắc rằng có nhiều tên gọi trong Tử Vi không dùng để chỉ một "ông sao" nào. Tử Vi không phải là khoa chiêm tinh thuần túy. Khoa này còn luận cả về những yếu tố khác, nhưng tinh lực khí vận khác trong vũ trụ có ảnh hưởng đến con người.

Tôi cũng có thói quen sưu tầm những lá số Tử Vi đã được lập thành, và luận đoán bởi các bậc túc nho thuộc thế hệ trước, hoặc tìm cách liên lạc với các bậc nho học uyên thâm Tử Vi để thu thập các quan điểm các nhau. Do đó, tôi được biết một quan niệm về Tinh, Diệu, và Thân

Chữ "Tinh" là để gọi đích danh vị sao ấy. Thí dụ như sao Tham Lang, Cự Môn...
Chữ "Diệu" là để chỉ riêng về một khía cạnh, một phương diện của vị sao ấy. Thí dụ như ngôi sao Phục Vị ở trên trời chỉ là một, chiếu xuống đến chúng ta, lại thành ra hai ảnh hưởng khác nhau một chút, đó là Tả Phụ và Hữu Bật. Cũng như Kình, Đà là hai khí lực, luôn luôn ở quanh Lộc Tồn.

Chữ "Diệu" chỉ để nói về một khía cạnh, một phương diện, một phần ảnh hưởng của vị sao. Có thể ví như cùng là một nguồn sáng từ mặt trời qua một lăng kính, chúng ta thấy có bảy màu khác nhau: màu tìm, màu chàm, màu xanh, màu xanh lá cây, màu vàng, da cam, đỏ. Nhìn vào chỗ này ta thấy màu xanh, nhìn vào chỗ khác, ta lại thấy màu đỏ. Xanh và đỏ tuy khác nhau, nhưng xét về nguồn gốc thì vẫn là một. Vì vậy, ở trên trời có một ngôi sao Phục Vị mà đến quả đất chúng ta thì có hai "Diệu" Tả Phụ và Hữu Bật. Cũng như ở trên trời, ánh sáng mặt trời chỉ là một, mà qua đám mây, hoặc qua một đám mưa, chúng ta có thể thấy nhiều màu sắc khác nhau, có khi phân ra đến bảy màu.

Do những yếu tố trợ lực, những sự chuyển biến tương tự mà bộ Tứ Hóa (Lộc, Quyền, Khoa, Kỵ) là "Diệu" chứ không phải là "Tinh" hay "Thần". Với thiên can Mậu thì Tham Lang có thêm một sự chuyển động về Lộc (Hóa Lộc, chuyển động này đưa đến kết quả tốt hay xấu cò tùy sự kết hợp với các yếu tố khác). Với thiên can Mậu thì Thái Âm có thêm một sự chuyển động về Quyền. Chứ không phải là hễ gặp tuổi Mậu thì "ông sao" Hóa Lộc di chuyển đến ở chung với ông Tham Lang, còn "ông sao" Hóa Quyền thì dọn nhà đến ở chung với... bà Thái Âm.

Khi đã định rõ sự khác biệt giữa Tinh và Diệu, khi đã có một quan niệm rõ về Tứ Hóa thuộc loại Hóa "Diệu", lúc ấy mới hiểu được một cách luận đoán tỷ mỷ về sự khắc hợp.

Bàn về sự khắc hợp giữa vợ chồng cha con

Mạng của hai vợ chồng hợp nhau. Lấy thiên can tuổi ủa người vợ, tính xem bộ Lộc Tồn, Kình Đà, Khôi Việt, Tuần Triệt, Tứ Hóa nằm vào những cung nào trong lá số người chồng. Tuy là hợp nhau nhưng cũng không ai được thập phần hoàn hảo. Lợi nhiều về điểm này thì có sự sút giảm chút ít về cung khác. Thí dụ mạng của hai vợ chồng hợp nhau. Cung Tài trong lá số người chồng có Lộc Tồn. Do ảnh hưởng của Thiên Can tuổi người vợ lại được thêm Hóa Lộc chiếu vào cung Tài, thì sự hợp này sẽ có thêm tiền tài... cứ như thế mà kết hợp các "sao" để gia giảm các cung khác.

Thí dụ cụ thể: người chồng tuổi Canh Tuất, sinh tháng 6, ngày 4, giờ Dậu, người vợ tuổi Nhâm Tý.
Canh Tuất thuộc Thoa Xuyến Kim, Nhâm Tý thuộc Tang Đỗ Mộc thấy có sự tương khác dù là khắc ít. Cung Thê của người chồng có Đồng Lương Lộc Mã, gặp Không Kiếp đắc địa, có Tang Điếu Hư Khốc, Hóa Kị. Người vợ tuổi Nhâm thì sao Thiên Lương ở cung Thê người chồng có thêm ảnh hưởng của Hóa Lộc (Hóa "Diệu"). Hai vợ chồng lục đục với nhau suốt đời, nhưng vẫn ăn nên làm ra, có sự nghiệp vững vàng cho đến lúc chết. Trong cái khắc vẫn có khi có điểm lợi.

Phương pháp luận đóa này của Cụ tôi, và một số người nghiên cứu Tử Vi trước kia vẫn áp dụng, thấy rất thâm thúy. Tuy nhiên, cần có một tâm hồn quảng đại và cần có quan niệm rõ ràng rằng Thiên Can của người hôn phối chỉ tạo nên ảnh hưởng tương đối, chứ không tạo nên ảnh hưởng quyết định. Lá số của mình vẫn có ảnh hưởng chính yếu. Đừng vì thấy Thiên Can của người hôn phối tạo nên Triệt ở Mệnh Thân của mình mà đi đến những ý nghĩ cố chấp, những thành kiến thất đức. Trong cái khắc vẫn có những điểm lợi về những phương diện khác. Dù có gặp sự khắc thì cũng tìm biết được điểm lợi những phương diện nào để phát triển thêm. Tôi sẽ viết thêm về cách luận đoán này để bạn có thể tìm nguồn an ủi, nhìn thấy rằng trong cái khắc vẫn có điểm tốt, điểm lợi, do đó sẽ tránh được những ý nghĩa hẹp hòi.

Trong bài này, tôi hãy xin nói về Tinh, Diệu, Thần.

Chữ Thần là nói chung về Thần khí do nhiều ngôi sao hợp lại, hoặc là chỉ về một khí lực trong vũ trụ chứ không phải là chỉ riêng một ngôi sao nào. Thí dụ như Thanh Long không phải là một "ông sao" mà là khí lực của một chòm sao. HOặc như là Thần khí, trong quẻ Dịch, chúng ta có Nhật Thần, đây là Thần khí của cái ngày đó, chứ không phải nói về một ông sao nào.

Vòng Tràng Sinh cũng gọi là Thập nhị Thần, là mười hai khí lực, thần khí, chứ không phải là mười hai ông Thần. Riêng về vòng Tràng Sinh tôi xin nói thêm ở đoạn sau bài này.

Tinh, Diệu, Thần tuy ba mà một, tuy một mà ba. Vì thế tôi phải lấy tên của bài này là "Sao không phải là Sao". Xét về tác dụng, thì cả ba đều có ảnh hưởng đến vận mệnh con người nên gọi chung là "sao" cho tiện. Xét về căn nguyên thì có khác nhau. Xét về căn nguyên sẽ có cái lợi là đưa người nghiên cứu đến chỗ lý giải có ý thức, có quan niệm mạch lạc về các phương hướng, vai trò, các yếu tố trong một lá số. Chứ không phải chỉ đoán đúng một vài tiểu tiết nhờ thuộc lòng một số công thức, hoặc đung đâu đoán đó, rồi nhờ "ông ứng" vẫn tiên tri như Thần.

Tôi quan niệm rằng tư tưởng hướng dẫn hành động. Xem Tử Vi thì cần có một quan niệm rõ rệt về công dụng, về giá trị của Tử Vi: nó là cái khoa gì, dùng nó trong trường hợp nào cái tên gọi trong Tử Vi là cái ngụ ý gì...

Sở dĩ người xưa xem Tử Vi chỉ nói một câu mà đúng chung thân cuộc đời, là nhờ có một tinh thần diễn dịch rộng rãi, một quan niệm thâm thúy về các tên gọi trong Tử Vi. Chứ không phải là chỉ dựa vào công thức, thấy Song Hao hãm thì nói là hao tài, thấy Song Lộc thì đoán là có tài lộc. Việc này quý bạn nào mới nhập môn Tử Vi cũng có thể đoán được.

Trong cuốn "Mệnh lý nghiên cứu" xuất bản tại Đài Bắc, tác giả có nói rằng Tinh, Diệu, Thần, tuy ba mà một, đó là xét về tác dụng. Xét về căn nguyên, chúng ta sẽ có một sự diễn dịch thâm thúy hơn.

Cũng trong cuốn này, tác giả có kể đến Thập cửu chính diệu, đó là: Tử Cơ Dương Vũ Đồng Liêm Phủ Âm Tham Cự Tướng Lương Sát Phá Tả Hữu Xương Khúc và Tồn.

Xin quý bạn Tử Vi đừng vội hoang mang trước quan niệm này. Tôi không đề cao cuốn "Mệnh lý nghiên cứu" như một "Thần Thư" làm tiêu chuẩn để đi tìm chân lý Tử Vi. Tôi chỉ muốn dẫn chứng rằng Tử Vi không phải chỉ gồm có một số công thức giản dị, mà còn có nhiều sự diễn dịch sâu xa của nhiều học giả lý số khác nhau. Điều cần thiết là một sự bình tâm nhẫn nại tìm hiểu các quan iệm rồi từ các quan niệm ấy, chúng ta sẽ tiến đến việc nghiên cứu Tử Vi một cách có ý thức chứ không phải chỉ vội vã áp dụng các công thức một cách nông cạn. Từ quan niệm "Mệnh vô chính diệu dĩ Mệnh vi chủ, đối tinh vi Tân" đến quan niệm Mệnh vô chính diệu, có hung tinh sát tinh nổi bật, đến quan niệm Mệnh có chính tinh mà bị khắc hãm quá, vai trò của chính tinh bị suy yếu, lu mờ, nên ví như vô chính diệu, phải xét đến các phù trợ tin khác, có biết bao nhiêu quan niệm tế nhị, mà người nghiên cứu cần tìm hiểu thêm. Không thể vội cố chấp vào cuốn sách này, hay công thức nọ.

Đoán tiểu hạn phải linh động Những trường hợp : THIÊN HÌNH, THIÊN MÃ VÀ ĐÀO HỒNG NHẬP HẠN

Đoán tiểu hạn phải linh động
Những trường hợp : THIÊN HÌNH, THIÊN MÃ VÀ ĐÀO HỒNG NHẬP HẠN

Như các bạn đã biết việc giải đoán tiểu hạn có thể nói là rắc rối, phức tạp nhất. Tôi chỉ xin khép lại giới hạn từ "linh động" trong chủ đề này mà thôi, thực ra việc đoán Tử-vi thì rất mênh mông vô cùng. Vì vậy hôm nay tôi thiết nghĩ không phải là vô ích khi trở lại vấn đề nêu trên. Qua một số cách giải đoán về tiểu hạn về Tử-Vi, tôi có một nhận xét chung là họ đều câu nệ ý nghĩa nguyên thủy của các sao nhập hạn quá mức đến nỗi mắc phải những sai lầm nặng nề trong việc giải đoán vận hạn.

Ví dụ như khi thấy Thiên Hình nhập hạn thì vội cho là sẽ bị thương tích, mổ cắt, giải phẩu..... ; thấy Thiên Mã (nhất là thêm Lưu Thiên Mã) là chắc bẩm sẽ có sự thay đổi, thuyên chuyển công tác ...; thấy Đào Hồng thì liền nghĩ tới vấn đề tình ái, ngoại tình hoặc sinh con v.v.... Tôi rất đồng ý là ta cần phải học thuộc đặc tính của các sao, nhưng khi giải đoán, nhất là về tiểu hạn, ta cần phải uyển chuyển và linh động chứ không thể áp dụng một cách máy móc được.

Như khi thấy trời mây đen u ám, sấm chớp ầm ầm, ta đừng vội quả quyết (!?) là sẽ mưa lớn vì thực ra có khi chẳng hề có một giọt mưa nào, do gió thay đổi chiều chẳng hạn ... Vậy đặc tính của các sao có thể ví với hiện tượng về thời tiết nghĩa là diễn tiến hoặc kết quả dễ bị thay đổi, và nhiều trường hợp đặc tính của các sao bị biến đổi đến mức ta không còn liên tưởng nổi tới ý nghĩa riêng của chúng nữa.

Bây giờ, để quý bạn đọc dễ hiểu tôi thấy không có cách gì khác hơn là nêu ra dưới đây nhiều trường hợp ứng dụng, chứ không thể nào đưa ra một số nguyên tắc hoặc phương phương-thức để giải đoán, vì phạm vi đề tài này rất mông lung, rộng lớn mà chỉ có nhiều năm kinh nghiệm và thực tập mới có thể thành thạo được.

1- THIÊN HÌNH NHẬP HẠN

Có một độc giả tâm sự với tôi rằng ông rât sợ Thiên Hình nhập hạn vì cứ năm nào gặp nó là mang thương tích liền (như tông xe, xe đụng mình hay bị máy cắt, hàn .... trong cơ khí làm tổn thương các bộ phận trên thân thể người, hay trong chiến tranh phải giẫm phải bom, mìn v.v....), đến nỗi bây giờ trên người ông đầy chiến thương (!), và ông khen lấy khen để khoa Tử-vi thật là vi diệu và ứng nghiệm. Tuy nhiên ông có nêu ra một thắc mắc là không hiểu tại sao anh của ông ta gặp hạn Thiên Hình chẳng bao giờ bị một vết trầy da mà lại còn hạnh thông mới kỳ lạ chứ ! Ông này có gửi cả hai lá số cho tôi để nhờ giải đáp.

Điểm ông thắc mắc kể ra chẳng có khó hiểu, vì ông không chịu phối hợp với Mệnh, Thân và một vài yếu tố khác. Ông ta bị thương lu bù là phải vì Mệnh của ông có Thất Sát hội Kình Dương cư Ngọ mà Đại Hạn lại có Hỏa Linh, Không Kiếp cho nên Tiểu hạn mà có Thiên Hình (dù là bàng chiếu) thì khó tránh được tai nạn. Còn anh ông ta là một nhà Điêu khắc sư (do ông cho biết) cho nên gặp hạn gặp Thiên Hình lại tốt vì Thiên Hình ứng vào : búa, đục, dao, kéo .... tức là đồ nghề chuyên môn để tạo nên những pho tượng hoành tráng, tuyệt mỹ, nhất là hạn lại thêm Xương Khúc, Hỷ Thần và xa lánh được những hung sát tinh (ở Đại Hạn cũng như ở Tiểu hạn), như thế làm sao chẳng hạnh thông.

Nếu anh của ông không gặp hạn có Thiên Hình, đương nhiên là yếu đi vì đã là điêu khắc sư mà lại thiếu đồ nghề, dụng cụ thì làm sao thực hiện các tác phẩm của mình. Cũng như trường hợp các nhà Luật (như : Thẩm phán, Bào chữa, Luật Sư .... ) nếu gặp hạn có Thiên Hình thường thêm uy quyền vì Thiên Hình chủ về cứu xét, thanh tra, kiểm tra ... miễn là không gặp nhiều hung sát tinh làm thay đổi sự ứng dụng của Thiên Hình.

Nhưng, những người nào có mạng hay bị tù tội (như có Liêm-Tham ở Tỵ- Hợi hội hung sát tinh) mà gặp hạn có Thiên Hình, thì rất đáng ngại, vì Hình lúc đó chủ về cây bút để viết thành bản án, nhất là khi có thêm Xương-Khúc tượng trưng cho văn kiện, giấy tờ.

Những trường hợp trên đây tương đối dễ tìm hiểu, nhưng có trường hợp rất khó giải đoán, như hạn gặp đủ cả Hỏa Linh, Hình, Không Kiếp, Kình Đà, Phục ... ai mà chẳng e ngại tai ương xảy ra. Thế mà có khi lại tốt đẹp nếu các sao này nhập hạn ở cung Điền-Trạch mà đương số là một điền chủ vì các sao này ứng vào các nông cụ, tá điền, máy cày ... khiến cho ruộng đất trở nên phì nhiêu, mùa màng tốt đẹp, nhưng nếu chẳng may các sao trên nhập hạn cung Giải Ách thì đương số bất luận là ai cũng dễ chết phi mạng.

Riêng tôi năm nay có Đại hạn-Tiểu Hạn trùng phùng có Thiên Phủ hội Thiên Hình, Tứ linh, Xương Khúc, Diêu Y, Tứớng Ấn, Quan Phúc .. tại cung Thê. Mạng đồng hành với Chính tinh là Thiên Phủ, Thiên Hình và không có Lục sát tinh hội chiếu, nên ứng vào một khía cạnh hơi đặc biệt, xin kể cho các bạn biết là tham gia và gửi bài vào các diễn đàn học thuật, phải chăng Thiên Hình ngày nay ứng vào máy vi tính, Internet, các phương tiện truyền thông tin ...

2- THIÊN MÃ NHẬP HẠN

Về sao Thiên Mã cũng vậy, đa số các bạn cứ nghĩ rằng là cứ có sao này nhập hạn mà lại gặp thêm cả Thiên Mã lưu niên thì 100 % là có sự thay đổi nhà cửa, công danh ... Tin tưởng như thế cũng không phải là hồ đồ vì thực ra có rất nhiều trường hợp ứng nghiệm, nhưng muốn cho chính xác hơn ta vẫn phải phối hợp với nhiều yếu tố khác. Nếu không phối hợp thì vô hình trung ta đã giải đoán theo kiểu "serie", không khác gì chỉ căn cứ vào năm sinh như các cẩm nang hàng chợ Tử-vi hàng năm bày bán trên thị trường.

Thực tế, ví dụ chẳng hạn như năm nay là năm Ất Mão , Lưu Thiên Mã ở cung Tỵ gây ảnh hưởng thay đổi cho rất nhiều tuổi, như tuổi Dần, Hợi (Nam), Sửu (Nữ) v.v... là những tuổi Tiểu Hạn năm Mão ở cung Tỵ, đó là chưa kể đến nhiều tuổi khác cũng gặp Lưu Thiên Mã chiếu. Nếu Tiểu hạn ở cung Hợi, Dậu, Sửu, Thân. Nhưng trên thực tế chắc chắn là ta không thể thấy các tuổi đó đều gặp sự thay đổi, ngay cả các tuổi Tiểu Hạn đi đến cung Tỵ. Đặt vấn đề như thế không có nghĩa là tôi phủ nhận ý nghĩa nguyên thủy của sao Thiên Mã, cố định cũng như lưu niên, nhưng tôi muốn nói rằng, ý nghĩa đó luôn luôn bị biến đổi dưới nhiều hình thức hoặc có trạng thái khiến cho ta nhầm lẫn, mặc dầu sau khi sự việc xảy ra ta vẫn thấy ý nghĩa của sao Thiên Mã phần nào. Ở đây tôi không bàn đến cách giải đoán bình thường của sao Thiên Mã (nhất là lưu Thiên Mã) như các sách Tử-vi đã nêu ra. Tôi chỉ muốn đề cập tới một số trường hợp mà " hiện tượng" Thiên Mã đã chuyển biến hoàn toàn :

- Tôi có được xem một lá số Tiểu hạn đi tới cung Thiên Di gặp đủ các sao Thiên Mã cố định lẫn lưu niên và còn thêm cả Thiên Đồng. Như thế ai chẳng chắc đoán là đương số di chuyển không xa thì gần, nhưng suốt cả năm không thấy đương số đi đâu cả mà cũng chẳng hề có chuyện thay đổi việc làm, chức vụ hoặc nhà cửa ... Sau khi thấy không ứng nghiệm, tôi liền nghiên cứu lại lá số đó và vẫn không hiểu nổi tại sao ?. Mặc dầu cũng cố tìm ra được một yếu tố là Mạng của đương số thuộc loại " ru rú xó nhà " (có Thiên Phủ hội Long-Phượng, Thai-Tọa đồng cung) mà Đại hạn không có môi trường gì thuận lợi cho việc di chuyển, nhưng riêng về Tiểu Hạn tôi vẫn ấm ức không biết Thiên Mã đã ứng vào khía cạnh nào. Về sau tình cờ đương số cho to tôi biết là người anh ruột của đương số ở ngoại quốc học mới về sau khi tốt nghiệp bậc Đại Học bên Tây. Lúc đó tôi mới vỡ lẽ ra và thấy ý nghĩa của sao Thiên Mã vẫn ứng nghiệm, nhưng đã thay đổi hiện tượng quá nhiều...

Thường thường Tiểu hạn đến cung Tài-Bạch gặp Lộc-Mã lưu niên ai mà chẳng nghĩ tới chuyện di chuyển vì kinh doanh, buôn bán hoặc ít ra công danh cũng thay đổi không nhiều thì ít, nhưng trên thực tế tôi đã gặp nhiều lá số với Tiểu hạn như vậy mà chẳng hề có việc di chuyển hay thay đổi gì. Trường hợp này tuy khác thường nhưng không khó giải đoán lắm, vì tôi đã gặp khá nhiều lá số có "lộ" ra chiều hướng đó. Quý bạn chỉ cần cân nhắc xem đương số có thuộc loại người xoay xở, bôn ba, bon chen để làm giàu hay không ? (khía cạnh này chắc các bạn cũng tím ra được) rồi coi tiếp Đại hạn có khuynh hướng buôn bán hay không ? Nếu đều không cả, thì gặp Tiểu hạn như trên chẳng thể có di chuyển hoặc thay đổi gì về sự nghiệp. Và khi đó thường thường Thiên Mã ứng về Tài Lộc bất ngờ , như ở trên trời rớt xuống, nghĩa là có thể trúng số lớn hoặc được ai cho một món tiền đáng kể nhất là khi có thêm Song-Hỷ và Không Kiếp đắc địa tại Tỵ hoặc Hợi, hoặc được Đại Hạn có Khôi Việt, Quang Quý, Quan Phúc chủ về môi trường thuận lợi cho tiền bạc vào bất ngờ một cách mau chóng và lợi lạc. Trường hợp trên Thiên Mã không khác gì " Sứ giả " tài lộc đem tiền lại cho mình và như thế ý nghĩa sao đó vẫn còn tồn tại.

Sau hết tôi xin nêu ra trường hợp Tiểu hạn đi đến cung Quan Lộc có đủ cả hai sao Thiên Mã cố định và lưu niên rồi lại còn có cả Thiên Không và Thiên Đồng hợp chiếu, nghĩa là gồm đủ các yếu tố thay đổi cho công danh, chức vụ (vì Tiểu hạn ở cung Quan Lộc)

Thế mà vẫn có một vài "ca" chẳng hề thay đổi mới nhức đầu chứ ! Đó là trường hợp lá số có cung Quan Lộc quá bền vững, lâu dài (như có Long Phượng hội Khoa, Quyền, Lộc, Thai Tọa v.v...) đồng thời Mạng không đồng hành với các sao có đặc tính thay đổi tọa thủ tại cung (tức là Thiên Mã trong trường hợp này) và cung Mệnh không có yếu tố hay bị thay đổi hoặc thích thay đổi khiến cho Thiên Mã phải chuyển hướng ứng nghiệm, nghĩa là làm cho những người đồng nghiệp của mình (trên cũng như dưới) phải bị thay đổi, sa thải hoặc thuyên chuyển (ngày nay gọi là sáo trộn nhân sự tại cơ quan), vì thực ra các sao ở cung Quan Lộc đâu có phải chỉ ứng vào cá nhân mình mà còn chi phối cả những người cùng làm xung quanh mình. Do đó, gặp trường hợp trên nếu quý bạn cứ quyết đoán là đương số thay đổi công dạnh, chức vụ, sự nghiệp... thì có phải là " hố " nặng nề không ?.

3- ĐÀO, HỒNG NHẬP HẠN

Sau hai sao Thiên Hình và Thiên Mã, tôi cần bàn thêm về các sao Đào Hồng nhập hạn thường là một đề tài sôi nổi và gay cấn cho nhữing người mới nghiên cứu Tử-vi, Nam cũng như Nữ. Thực tế, khi thấy Đào Hồng nhập hạn, người thì cho rằng ứng vào thai nghén, sinh đẻ, người thì nghi ngờ sẽ có chuyện tình ái, vương lụy ... kẻ thì mừng là sẽ gặp tin vui, may mắn bất ngờ v.v... Đúng ra những điều trên bình thường vẫn xảy ra nhưng khi gặp những trường hợp phức tạp, ý nghĩa này sẽ không còn ứng nghiệm nữa.

Ví dụ như có người hạn gặp Đào Hồng chẳng những không được may mắn mà còn bị lường gạt, mưu hại do các sao Hóa Kỵ, Phục Binh, Không Kiếp, Tả Hữu gây ra, nhất là khi tiểu hạn đi đến cung Nô Bộc, Thiên Di, Quan Lộc hoặc Tài Bạch.

Còn về chuyện vương lụy, tình ái ... cũng vậy. Nhiều khi Đào Hồng hội đủ cả Song Hỷ, Thai, Mộc Dục, Hoa Cái nhập hạn mà suốt năm chẳng thấy có gì liên hệ đến phương diện tình cảm, chứ chưa nói tới tình ái. Đó là trường hợp cung Mệnh của đương số đứng đắn , đàng hoàng, chí thú làm ăn mà Tiểu Hạn đi đến cung Điền Trạch, vì khi đó các sao " lả lướt " mất môi trường hoạt động và chuyển sang ý nghĩa tô điểm, sửa sang nhà cửa cho sáng sủa, đẹp đẽ hơn hoặc thay đổi những đồ cũ và sắm bàn ghế, giừơng tủ, đồ đạc, xe mới ....

Viết bài hôm nay, tôi không dám có chủ đích chỉ dẫn quý bạn giải đoán cho thật chính xác Tiểu Hạn vì khía cạnh này rất mênh mông và khó khăn mà chính tôi nhiều khi cũng điên đầu không sao tìm ra được những điểm sai lầm hoặc không ứng nghiệm. Tôi nêu ra những trường hợp kể trên chỉ cốt giúp quý bạn có một ý niệm tổng quát về ý nghĩa linh động của các sao Tử-Vi ; nhất là về Tiểu Hạn để tránh được phần nào thất vọng khi gặp những lá số rắc rối, phức tạp hoặc mơ hồ, dễ khiến chúng ta lầm lẫn./.

NGUYÊN TẮC TRONG TỬ VI


I.                   NGUYÊN TẮC
1. GIỜ
     Giờ Tý khởi từ 23 – 01
     Giờ Sửu ------- 01 – 03
     Giờ Dân ------- 03 – 05
     Giờ Mão ------- 05 – 07
     Giờ Thìn ------- 07 – 09
     Giờ Tỵ ------- 09 – 11
     Giờ Ngọ ------- 11 – 13
     Giờ Mùi ------- 13 – 15
     Giờ Thân ------- 15 – 17
     Giờ Dậu ------- 17 – 19
     Giờ Tuất ------- 19 – 21
     Giờ Hợi ------- 21 - 23
Sinh tháng nhuận
- Nếu sinh vào tháng nhuận thì cách tính như sau :
- Từ ngày 1 đến ngày 15 thì tính là tháng chính ;
- Từ ngày 16 đến ngày 30 thì tính là tháng sau.
Ví dụ: Sinh ngày 3 tháng 5 nhuận thì tính là ngày 3 tháng 5
Sinh ngày 18 tháng 5 nhuận thì tính là ngày 18 tháng 6

2. CAN - CHI
Cần phân rõ hành CAN để biết được tuổi mỗi người thuộc về ÂM hay DƯƠNG. Ví dụ người tuổi Giáp Tý mà đàn ông thì gọi là Dương Nam mà đàn bà gọi là Dương Nữ. Tuổi At Sửu thì đàn ông gọi là Am nam, mà đàn bà thì gọi là ÂM nữ. Cứ theo Hành CAN, thì có một ÂM, một Dương chen nhau:  
CAN
CHI
Giáp = Mộc +
Ất = Mộc -
Bính = Hỏa +
Đinh = Hỏa -
Mậu = Thổ +
Kỷ = Thổ -
Canh = Kim +
Tân = Kim -
Nhâm = Thủy +
Quý = Thủy -
 Tý = Thủy +
 Sửu = Thổ -
 Dần = Mộc +
 Mão = Mộc -
 Thìn = Thổ +
 Tỵ = Hoả -
 Ngọ = Hoả +
 Mùi = Thổ -
 Thân = Kim +
 Dậu = Kim -
 Tuất = Thổ +
 Hợi = Thủy -
CAN PHÁ
Giáp >< Mậu >< Nhâm >< Bính >< Canh >< Giáp
Tân >< Ất >< Kỷ >< Quý >< Đinh >< Tân
CAN HỢP
Giáp - Kỷ, Ất - Canh, Bính - Tân, Đinh - Nhâm , Mậu - Quý
Hàng Can của tháng thay đổi tùy theo hàng Can của năm và theo công thức sau ấn định cho tháng Dần (tháng Giêng).
     Can của năm         Can của tháng Giêng
      Giáp, Kỷ               Bính
      Ất, Canh               Mậu
      Bính, Tân              Canh
      Đinh, Nhâm             Nhâm
      Mậu, Quý               Giáp
             GIÁP, KỶ chi niên BÍNH DÂN thủ
             ẤT, CANH chi tuế MẬU DÂN đầu
             BÍNH, TÂN định thị CANH DẦN khởi
             ĐINH, NHÂM: NHÂM DẦN thuận số lưu
             MẬU, QUÍ: GIÁP DẦN khởi ngoại cầu

Chú ý: Hàng Can của năm, tháng, ngày, giờ rất quan trọng trong việc giải đoán, vì nó chủ về Mệnh Trời. (yếu tố Thiên Mệnh trong mạng vận).
Đem hành hàng Can của năm sinh so với hàng Can của năm vận là nắm được yếu tố tốt, xấu của năm vận. Lại so sánh hành hàng Can với hành hàng Chi của năm sinh, là biết được một nét chính tốt xấu của cuộc đời.

3. NGŨ HÀNH
a. Tương sinh
Mộc --> Hỏa --> Thổ --> Kim --> Thủy --> Mộc
b. Tương khắc
Mộc >< Thổ >< Thủy >< Hỏa >< Kim >< Mộc
c. Tam hợp
- Mỗi cung thuộc vào một bộ tam hợp. VD: Cung Tuất thuộc tam hợp Dần Ngọ Tuất.
- Khi đọc tam hợp lên, phải theo đúng thứ tự như đã ghi tức là đọc Dần trước rồi đến Ngọ rồi đến Tuất. Đó là theo lễ Dịch, mỗi bộ tam hợp gồm những cung hợp nhau, sinh nhau:
1. Dần Ngọ Tuất: Mộc (Dần) --> Hoả (Ngọ) --> Thổ (Tuất)
2. Tỵ Dậu Sửu: Hoả (Tỵ ) --> Thổ --> Kim (Dậu) --> Thổ (Sửu)
3. Thân Tý Thìn: Kim (Thân) --> Thủy (Tý) --> Thổ (Thìn)
4. Hợi Mão Mùi: Thủy (Hợi) --> Mộc (Mão) --> Thổ (Mùi)
Trong mỗi tam hợp, có chữ đầu, chữ giữa và chữ cuối. Chữ đầu sinh ra cung giữa, cung giữa là cung chính (chính Hành và chính Phương), cung dưới bao giờ cũng là cung Thổ, còn gọi là cung Mộ, vì mọi hành đều trở về Thổ. Vậy:
- Tứ sinh: Dần, Thân, Tỵ, Hợi
- Tứ tuyệt (chính): Tý, Ngọ, Mão, Dậu
- Tứ mộ: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi
Mỗi tam hợp có một hành, đó là hành của cung trong tứ chính. Như vậy:
- Dần, Ngọ, Tuất: hành Hỏa
- Tỵ, Dậu, Sửu: hành Kim
- Thân, Tý, Thìn: hành Thủy
- Hợi, Mão, Mùi: hành Mộc
Trong phép giải đoán, khi xét một cung, phải xét cả 2 cung kia trong tam hợp (gọi là cung tam hợp chiếu) coi cả 3 cung như nhau. Như Mạng đóng ở Tuất, thì phải xét cả 2 cung Dần và Ngọ cũng quan trọng như Tuất.
d. Nhị hợp
- Sửu --> Tý (Tam họp Kim --> Tam hợp Thủy )
- Dậu --> Thìn (Tam họp Kim --> Tam hợp Thủy )
- Tỵ --> Thân (Tam họp Kim --> Tam hợp Thủy )
- Mùi --> Ngọ (Tam họp Mộc --> Tam hợp Hỏa)
- Hợi --> Dần (Tam họp Mộc --> Tam hợp Hỏa )
- Mão --> Tuất (Tam họp Mộc --> Tam hợp Hỏa)
- Vậy nhị hợp chỉ có một chiều; chiều ngược lại không đúng. Thí dụ: Sửu nhị hợp cho Tý, nhưng Tý không nhị hợp cho Sửu. Ta nhận xét thêm là trong một cặp nhị hợp, chiều nhị hợp do từ cung Âm sang cung Dương, vậy là cung Âm sinh xuất, cung Dương sinh nhập.
- Trong phép giải đoán, cung nào bị sinh xuất thì không kể đến nhị hợp. Cung nào được sinh nhập mới được kể đến nhị hợp. Thí dụ: Mạng ở Tuất, Tuất được Mão sinh nhập. Vậy ta xem cả Sao ở Mão.
e. Nhị xung (cung xung chiếu)
Tý >< Ngọ (Tam họp Thủy >< Tam hợp Hỏa)
Sưu >< Mùi (Tam hợp Kim >< Tam hợp Mộc)
Dần >< Thân (Tam họp Thủy >< Tam hợp Hỏa)
Mão ><Dậu (Tam hợp Kim >< Tam hợp Mộc)
Thìn >< Tuất (Tam họp Thủy >< Tam hợp Hỏa)
Tỵ >< Hợi (Tam hợp Kim >< Tam hợp Mộc)
Lưu ý:
Tý >< Ngọ: Tý khắc xuất, Ngọ bị khắc nhập
Sửu >< Mùi: Sửu khắc xuất, Mùi bị khắc nhập
Dần >< Thân: Thân khắc xuất, Dần bị khắc nhập
Mão >< Dậu: Dậu khắc xuất, Mão khắc nhập
Thìn >< Tuất: Thìn khắc xuất, Tuất bị khắc nhập
Tỵ >< Hợi: Tỵ khắc xuất, Hợi bị khắc nhập
   Tóm lại, khi xem cung nào phải ĐỒNG THỜI xem cả cung xung chiếu, 2 cung tam chiếu và cung nhị hợp, tức là phải xem 5 cung cùng một lúc để cân nhắc chung.
   Thông thường người ta xem 5 cung có tầm quan trọng ngang nhau. Nhưng có người tinh vi hơn muốn đánh giá 5 cung đó theo ưu tiên quan trọng khác nhau. Theo quan điểm này thì:
- Quan trọng nhất là cung chánh (ví dụ là Tuất)
- Quan trọng nhì là cung xung chiếu (Thìn)
- Quan trọng ba là 2 cung tam chiếu (Dần và Ngọ)
- Quan trọng bốn là cung nhị hợp (Mão)
   Sự đánh giá này xét qua cũng hợp lý vì bao giờ sao tọa thủ tại cung chánh cũng nặng cân hơn cả, rồi đến các sao tọa thủ tại cung trực chiếu, rồi đến tam chiếu và sau cùng là nhị hợp.
Sự đánh giá này phân biệt được ảnh hưởng trực tiếp và các ảnh hưởng gián tiếp ngõ hầu cân nhắc sự nặng nhẹ của biến cố, giúp cho việc luận đoán tinh vi hơn, cụ thể hơn, có thể chính xác hơn, đầy đủ hơn. Trái lại, nếu gọp chung 5 cung lại coi nhưng ngang giữa nhau thì chỉ có được ý niệm chung về biến cố, không suy diễn được chi tiết của biến cố (nguyên nhân, hậu quả, hình thái, tính chất…) khiến cho sự lượng định, thẩm định không rõ ràng.

4. NHỮNG TIẾN TRÌNH PHẢI THEO
Có 2 giai đoạn của tiến trình: Xem trước hết phần địa bàn. Kế đến xem phần thiên bàn.
Trong địa bàn các yếu tố phải xem là: Tuổi Âm Dương đối với vị trí cung an Mệnh và Thân Tương quan ngũ hành giữa Bản Mệnh và Cục.
Trong thiên bàn, các yếu tố phải xem là: Cung Phúc đức Cung Mệnh, cung Thân, và những cung cường của mỗi phái. Phái Nam có các cung Quan, Tài, Di, Thê. Phái Nữ có cung Phu, Tài, Tử.
a. Xem tuổi Âm Dương với vị trí cung an Mệnh, Thân
- Âm Dương thuận lý: Là trường hợp tuổi Dương mà Mệnh đóng ở Dương cung, hoặc tuổi Âm mà mệnh đóng ở Âm cung. Việc thuận lý này được kể như một lợi điểm đầu tiên: đó là một điểm tốt, một yếu tố thuận lợi.
- Âm Dương nghịch lý: ngược lại trường hợp trên. Sự nghịch lý này là một bất lợi, một chỉ dấu trục trặc đầu tiên. Chưa thể xác định ngay phương diện nào bị trục trặc. Phải tìm thêm các yếu tố khác bổ túc. Điều cần lưu ý rằng sự thuận lý hay nghịch lý của qui luật Âm Dương trong tiến trình này không hoàn toàn có tính cách quyết định. Đó chỉ là một yếu tố như những yếu tố khác và phải được cân nhắc trong bối cảnh các yếu tố khác. Tuy nhiên, nó cũng giúp ta một ý niệm tiên khởi và rất tổng quát về một đặc điểm nhỏ của lá số.
b. Xem tương quan ngũ hành giữa Bản Mệnh và Cục
Giữa 2 yếu tố này, có 2 trường hợp:
- Ngũ hành và tương sinh: Đó là Mệnh Cục tương sinh nói chung. Ví dụ: Mệnh Kim sanh Cục Thủy, hay Cục Hỏa sanh Mệnh Thổ. Do đó, có 2 trường hợp Mệnh sanh Cục, có trường hợp Cục sanh Mệnh. Dù cả 2 tương sinh nhau, nhưng tùy theo Mệnh sinh hay Mệnh được sanh, giá trị hơn kém sẽ khác nhau. Tốt là trường hợp Cục sanh Mệnh. Nhờ đó Bản Mệnh thịnh: đó là một yếu tố thuận lợi. Kém tốt là trường hợp Mệnh sanh Cục. Vì vậy Bản Mệnh bị hao: đó là một yếu tố kém thuận lợi, tuy không hẳn là xấu.
Cục sinh Mệnh, còn gọi là sinh nhập, trái lại là sinh xuất. Mọi sự hao, xuất của Mệnh trong luật tương sinh này đều kém tốt. Nhưng đó cũng còn đỡ hơn trường hợp tương khắc.
-  Ngũ hành tương khắc: Đó là trường hợp hành Mệnh và hành Cục khắc nhau như Kim khắc Mộc, Hỏa khắc Thủy. Ở đây, cũng có 2 hướng khắc: Mệnh khắc Cục và Cục khắc Mệnh. Đỡ xấu là Mệnh khắc Cục. Như Kim Mệnh khắc Mộc Cục. Thế Kim ưu thắng nên Mệnh đỡ hao. Xấu hơn là Cục khắc Mệnh. Trong trường hợp này Mệnh bị thiệt thòi rất lớn.
       Như vậy, việc tương sanh hay tương khắc giữa Mệnh cục có 4 mức độ hay dở khác nhau. Mỗi trường hợp hay dở, tuy có giá trị riêng rẽ, nhưng đáng kể là có giá trị trong thế tương quan với sự thuận hay nghịch lý của tuổi Âm Dương nói trên.
      Giữa 2 loại tương quan Âm Dương của tuổi và Ngũ Hành của Mệnh Cục, càng có nhiều yếu tố thuận lợi thì số càng đẹp. Hai loại tương quan này kết hợp lại đưa đến 8 hướng luận đoán:
Tương quan Âm Dương
Tương quan Ngũ hành
AD thuận lý
1. Cục sinh mệnh
2. Mệnh sinh cục
3. Mệnh khắc cục
4. Cục khắc mệnh
AD nghịch lý
5. Cục sinh mệnh
6. Mệnh sinh cục
7. Mệnh khắc cục
8. Cục khắc mệnh
       Sự cân phân tốt xấu giữa 8 trường hợp này rất khó khăn nhất là đối với 4 trường hợp 3, 4, 5 và 6.
Tất nhiên, ai cũng đồng ý rằng, lý tưởng nhất là ca 1, kế đến là ca 2, xấu nhất là ca 8, xấu nhì là ca 7.
Đối với 4 trường hợp kia, có 2 cách đánh giá:
- Xem qui luật tương thuận Âm Dương quan trọng hơn. Cách này tham chiếu căn bản triết lý cho rằng tác hóa Âm Dương sinh ra ngũ hành, nên qui luật tương thuận về Âm Dương ưu thắng hơn. Theo cách giải thích này, thì trường hợp 3 và 4 phải hay hơn trường hợp 5 và 6.
- Xem tương sinh ngũ hành của bản Mệnh là một yếu tố then chốt của lá số, nên việc phù sinh cho Mệnh nhất định phải ưu thắng hơn, dù là gặp bối cảnh Âm Dương nghịch lý. Theo đó, ca 5, 6 hay hơn ca 3, 4.
5. Xem số trẻ con
1 tuổi xem Mệnh, 2 tuổi xem Tài, 3 tuổi xem Tật, 4 tuổi xem Phu Thê, 5 tuổi xem Phúc, 6 tuổi xem Quan, 7 tuổi xem Nô, 8 tuổi xem Di, 9 tuổi xem Tử, 10 tuổi xem Bào, 11 tuổi xem Phụ, 12 tuổi xem Điền.
Khi trẻ lên 13 thì bắt đầu xem hạn như người lớn. Thông thường trẻ dưới 12 tuổi ít khi có biến cố chính xác. Nên có xem cũng chỉ nên dè dặt, cẩn thận
 
II.                LẬP THÀNH

Trước hết, lá số có 12 cung chia 12 ô để an các sao gọi là Địa Bàn, Còn vòng bên trong gọi là Thiên Bàn để ghi năm tháng ngày giờ, cục và tiểu hạn

Tỵ Hỏa -
Ngọ Hỏa +
Mùi Thổ -
Thân Kim +
Thìn Thổ+

Dậu Kim -
Mẹo Mộc-
Tuất Thổ +
Dần Mộc +
Sửu Thổ -
Tý Thủy +
Hợi Thủy -

- Biết rõ mỗi cung thuộc hành nào thì khi đoán số ta mới biết mệnh, sao có cùng hành ấy sinh khắc hay không thì mới xác thực
- Ví dụ: Sao Thiên cơ thuộc Mộc mà đóng ở cung Thân là cung Kim vậy là cung khắc, làm giảm lực của sao rất nhiều. Hoặc giả người Mệnh Mộc mà an trúng cung Hỏa cũng bì khắc.

1. Định cung Mạng, Thân và các cung khác
- Từ cung Dần kể là tháng Giêng, đếm nhuận từ cung đến tháng sinh rồi từ đó kể là Tý, đếm ngược từng cung đến giờ sinh: An Mạng.
- Từ cung Dần kể là tháng Giêng, đếm nhuận từ cung đến tháng sinh rồi từ đó kể là Tý, đếm thuận từng cung đến giờ sinh: An Thân
- Cung mệnh đã an rồi, lần lượt viết theo chiều thuận từng cung: Mạng, Phụ, Phúc, Điền, Quan, Nô, Thiên, Tật, Tài, Tử, Phối, Bào (12 cung).

2. Định Cục

Cung Mệnh
Tuổi Giáp, Kỷ
Tuổi Ất, Canh
Tuổi Bính, Tân
Tuổi Đinh, Nhâm
Tuổi Mậu Quý
Tý, Sửu
Thủy 2 Cục
Hỏa 6 Cục
Thổ 5 Cục
Mộc 3 Cục
Kim 4 Cục
Dần,Mão,
Tuất, Hợi
Hỏa 6 Cục
Thổ 5 Cục
Mộc 3 Cục
Kim 4 Cục
Thủy 2 Cục
Thìn, Tỵ
Mộc 3 Cục
Kim 4 Cục
Thủy 2 Cục
Hỏa 6 Cục
Thổ 5 Cục
Ngọ, Mùi
Thổ 5 Cục
Mộc 3 Cục
Kim 4 Cục
Thủy 2 Cục
Hỏa 6 Cục
Thân, Dậu
Kim 4 Cục
Thủy 2 Cục
Hỏa 6 Cục
Thổ 5 Cục
Mộc 3 Cục

   
Cục là gì: Ta chỉ có thể hình dung tạm thời Cục như một yếu tố căn bản, một thành phần bất khả phân của con người, có tính cách quyết định vận mệnh con người một các rất tổng quát. Cũng vì tính cách quá ư tổng quát đó, nên Cục không nói lên được đặc điểm gì xác định về con người.
    Cục được đánh giá qua sự tương sinh hay tương khắc với Bản Mệnh để tìm trong tương sinh hay tương khắc đó một ý nghĩa tổng quát nào đó về con người.
    Ví dụ: Kim Mệnh đi với Thủy Cục thì tương sanh, từ đó, tiên niệm rằng đời người tương đối suông sẻ, ít gặp nghịch cảnh, tương đối sung túc. (?) Ngược lại, Kim Mệnh đi với Mộc Cục tất tương khắc, do đó sẽ gặp nhiều trắc trở trên bước đường đời (?). Nếu Kim Mệnh đi với Kim Cục thì tị hòa, không tốt, không xấu, bình thường, tiên niệm rằng con người tạm thích nghi được với mọi hoàn cảnh của cuộc đời, sự thăng hay sự trầm cũng vừa phải, nổi bật thì không nổi bật, nhưng lu mờ thì cũng không mấy lu mờ (?).
    Vì được xét trong tương quan với Bản Mệnh qua sự sinh khắc của hai thành, nên cần biết qua về liên hệ giữa Mệnh và Cục. Trong bối cảnh nà, Bản Mệnh bao giờ cũng được xem là quan trọng hơn Cục. Do đó, Mệnh thịnh dĩ nhiên tốt hơn Cục thịnh.
    Bản Mệnh chỉ thịnh vượng trong trường hợp hành của Mệnh được hành của Cục tương sinh. Ví dụ: Mệnh Thủy, Cục Kim. Cục Kim vốn sanh Mệnh Thủy. Cục phù cho mệnh thì mệnh tốt. Ngược lại nếu mệnh sanh cục thì mệnh hao. Thành thử Cục sanh Mệnh đẹp hơn Mệnh sanh Cục, dù cả hai hành tương sinh.
    Trong trường hợp Mệnh Cục tương khắc, sự tốt đẹp bị hóa giải đi nhiều và kém hơn trường hợp Mệnh sinh Cục. Sự tương quan giữa Mệnh và Cục nói lên 1 hàm số của Phúc đức. Nếu Phúc tốt mà Mệnh Cục tương khắc thì cái tốt bị chiết giảm. Sự sinh khắc giữa Mệnh Cục so với Phúc đức có thể ví như một cái máy trợ lực hay một cái thắng đối với phúc. Nếu mệnh thịnh thì phúc tốt hơn, ngược lại phúc kém đi trở thành xấu.

3. Tìm bản mệnh
Giáp Tý, At Sửu: Hải trung kim (vàng đáy biển)
Bính Dần, Đinh Mão: Lô trung Hỏa (lửa trong lò)
Mậu Thìn, Kỷ Mão: Đại lâm mộc (cây ở trong rừng)
Canh Ngọ, Tân Mùi: Lộ bàng thổ (đất bên đường)
Nhâm Thân, Quý Dậu: Kiếm phong kim (vàng đầy gươm)
Giáp Tuất, At Hợi: Sơn đầu hỏa (lửa đầu núi)
Bính Tý, Đinh Sửu: Giản hạ thủy (nước khe suối)
Mậu Dần, Kỷ Mão: Thành đầu thổ (đất đầu thành)
Canh Thìn, Tân Tỵ: Bạch lạp kim (đèn nến trắng)
Nhâm Ngọ, Quý Mùi:  Dương liễu mộc (cây dương liều)
Giáp Thân, Ất Dậu: Tuyền trung thủy (nước giữa suối)
Bính Tuất Đinh Hợi : Ốc thượng thổ (đất mái nhà)
Mậu Tý, Kỷ Sửu: Tích lịch hỏa (lửa sấm sét)
Canh Dần, Tân Mão: Tòng bách mộc (cây tòng bách)
Nhâm Thìn, Quý Tỵ:  Tràng lưu thủy (nước dòng sông)
Giáp Ngọ, At Mùi : Sa trung kim (vàng trong cát)
Bính Thân, Đinh Dậu : Sơn hạ hỏa (lửa dưới cát)
Mậu Tuât, Kỷ Hợi: Bình địa mộc (cây đồng bằng)
Canh Tý, Tân Sửu: Bịch thượng thổ (đất trên vách)
Nhâm Dần, Quý Mão: Kim bạch kim (vàng bạch kim)
Giáp Thìn, Ất Tỵ: Phú đăng hỏa (lửa ngọn đèn lớn)
Bính Ngọ, Đinh Mùi: Thiên thượng thủy (nước trên trời)
Mậu Thân, Kỷ Dậu: Đất trach thổ (đất làm nhà)
Canh Tuất, Tân Hợi: Xuyến thoa kim (vàng trong tay)
Nhâm Tý, Quý Sửu: Tang khô mộc (gỗ cây dâu)
Giáp Dân, Ất Mão: Đại khê thủy (nước suối lớn)
Bính Thìn, Đinh Tỵ: Sa trung thổ (đất giữa cát)
Mậu Ngọ, Kỷ Mùi: Thiên thượng hỏa (lửa trên trời)
Canh Thân, Tân Dậu: Thạch lựu mộc (cây thạch lựu)
Nhâm Tuất, Quý Hợi: Đại hải thuỷ (nước biển lớn)
 
4. Ghi Đại vận - Tiểu vận
a. Đại vận
Kể từ cung Mệnh, ghi mỗi cung một số theo chiều thuận nếu là Dương Nam, Âm Nữ; theo chiều nghịch nếu là Âm Nam, Dương Nữ. Các số là số cục tùy theo cục tìm thấy, tiếp theo mỗi cung là số đó cộng 10, 20, 30……
b. Tiểu vận
- Tuổi Dần, Ngọ, Tuất: ghi hàng Chi của mình ở cung Thìn
- Tuổi Tỵ, Dậu, Sửu: ----------------------------- Mùi
- Tuổi Thân, Tý, Thìn:----------------------------- Tuất
- Tuổi Hợi, Mão, Mùi:----------------------------- Sửu
Rồi Nam đi thuận, Nữ đi nghịch, lần lượt ghi hàng Chi theo đúng thứ tự, mỗi cung một chữ, ghi ở lề trong của cung. Hết hàng Chi đến Hợi, lại nối tếp bằng Tý.
III. AN SAO

An Tử Vi
Sao Tử Vi an theo Cục và ngày sinh. Tùy theo Cục và ngày sinh ở đâu, an Tử Vi ở đấy.
08 - 09
10 - 11
12 - 13
14 - 15
06 - 07- 30
Thủy Nhị Cục
16 - 17
04 - 05
28 - 29
18 - 19
02 - 03
26 - 27
01 - 24 - 25
22 - 23
20 - 21

04  - 12 - 14
07 - 17 - 15
10 -20-18
13 - 21 - 23

01 -  09 - 11

Mộc Tam Cục


16 - 24 - 26

06 - 08
19 - 27 - 29

05 - 03
02 - 28
25
22 - 30






06 - 16
19 - 25
10 - 20
23 - 29
14 -24 - 27
18 - 28
02 - 12
15 - 21
Kim tứ Cục
22
08 - 11 -17
26
04 - 07 -13
03 - 09
05
01 - 30
08 - 20 - 24
01 - 13
25 - 29
06 - 18 - 30
11 - 23
03 - 15
19 - 27
Thổ Ngũ Cục
16 - 28
10 - 14 - 22
21
05 - 09 - 17
04 - 12
07
02 - 26







10 - 24 - 29
02 - 16 - 30
08 - 22
14 - 28
04-18-23
Hỏa Lục Cục
01 - 20
12-17-27
07 - 26
06 - 11 - 21
05 - 15 - 25
09 - 19
03 - 13
2. An 14 chính tinh dựa theo Tử Vi
Tử Vi
Liêm
Đồng
Nhật
Phủ
Âm
Tham
Cự
Tướng
Lương
Sát
Phá
Thìn
Mùi
Thân
Dậu
Hợi
Thìn
Tỵ
Ngọ
Mùi
Thân
Dậu
Tuât
Dần
Sửu
Tỵ
Thân
Dậu
Tuất
Mẹo
Thì
Tỵ
Ngọ
Mùi
Thân
Dậu
Sửu
Dần
Ngọ
Dậu
Tuất
Hợi
Sửu
Dần
Mẹo
Thìn
Tỵ
Ngọ
Mùi
Thân
Mẹo
Mùi
Tuất
Hợi
Dần
Sửu
Dần
Mẹo
Thìn
Tỵ
Ngọ
Mùi
Hợi
Thìn
Thân
Hợi
Sửu
Mẹo
Sửu
Dần
Mẹo
Thìn
Tỵ
Ngọ
Tuất
Tỵ
Dậu
Sửu
Dần
Thìn
Hợi
Sửu
Dần
Mẹo
Thìn
Tỵ
Dậu
Ngọ
Tuất
Sửu
Dần
Mẹo
Tỵ
Tuất
Hợi
Sửu
Dàn
Mẹo
Thìn
Thân
Mùi
Hơi
Dần
Mẹo
Thìn
Ngọ
Dậu
Tuất
Hợi
Sửu
Dần
Mẹo
Mùi
Thân
Mẹo
Thìn
Tỵ
Mùi
Thân
Dậu
Tuât
Hợi
Sửu
Dần
Ngọ
Dậu
Sửu
Thìn
Tỵ
Ngọ
Thân
Mùi
Thân
Dậu
Tuất
Hợi
Sửu
Tỵ
Tuát
Dần
Tỵ
Ngọ
Mùi
Dậu
Ngọ
Mùi
Thân
Dậu
Tuât
Hợi
Thìn
Hợi
Mẹo
Ngọ
Mùi
Thân
Tuất
Tỵ
Ngọ
Mùi
Thân
Dậu
Tuất
Hợi
Mẹo
3. An vòng Tràng Sinh
Tràng sinh, Dưỡng, Thai, Tuyệt, Mộ, Tử, Bệnh, Suy, Đế vượng, Lâm Quan, Quan Đới, Mộc Dục
a. Dương nam, Âm nữ (an theo chiều nghịch)
- Hỏa Lục cục: Tràng Sinh tại Dần
- Kim Tứ cục: Tràng Sinh tại Tỵ
- Mộc Tam cục: Tràng Sinh tại Hợi
- Thổ, Thủy Cục: Tràng Sinh tại Thân
b. Âm nam, Dương nữ (an theo chiều thuận)
- Hỏa Lục cục: Tràng Sinh tại Ngọ
- Kim Tứ cục: Tràng Sinh tại Dậu
- Mộc Tam cục: Tràng Sinh tại Mão
- Thổ, Thủy Cục: Tràng Sinh tại Tý

4. An vòng Thái Tuế
- Vòng Thái Tuế: Thái Tuế, Thiếu Dương, Tang Môn, Thiếu Âm, Quan Phù, Tử Phù, Tuế Phá, Long Đức, Bạch Hổ, Phúc Đức, Điếu Khách, Trực phù
- Sinh năm nào thì an Thái Tuế ở cung đó, rồi theo chiều thuận an tiếp các sao còn lại

5. An vòng Lộc Tồn
- Vòng Lộc Tồn: Lộc Tồn, Bác Sỹ, Lực Sỹ, Thanh Long, Tiểu Hao, Tướng Quân, Tấu thư, Phi Liêm, Hỷ Thần, Bệnh Phù, Đại Hao, Phục Binh, Quan Phủ
- Lộc Tồn ở đâu, Bác Sỹ ở đó
- Dương nam, Âm nữ: an các sao tiếp theo chiều thuận
- Âm nam, Dương nữ: an các sao tiếp theo chiều nghịch


6.Những sao an theo hàng Can năm sinh

Giáp
Ất
Bính
Đinh
Mậu
Kỷ
Canh
Tân
Nhâm
Quý
Lộc Tồn
Dần
Mão
Tỵ
Ngọ
Tỵ
Ngọ
Thân
Dậu
Hợi
Kình
Mão
Thìn
Ngọ
Mùi
Ngọ
Mùi
Dậu
Tuất
Sửu
Đà La
Sửu
Dần
Thìn
Tỵ
Thìn
Tỵ
Mùi
Thân
Tuất
Hợi
Q.Ấn
Tuất
Hợi
Sửu
Dần
Sửu
Dần
Thìn
Tỵ
Mùi
Thân
Đ.Phù
Mùi
Thân
Tuất
Hợi
Tuất
Hợi
Sửu
Dần
Thìn
Tỵ
T.Khôi
Sửu
Hợi
Hợi
Sửu
Ngọ
Ngọ
Mão
Mão
T.Việt
Mùi
Thân
Dậu
Dần
Mùi
Thân
Dần
Dần
Tỵ
Tỵ
T.Quang
Mùi
Thìn
Tỵ
Dần
Mão
Dậu
Hợi
Dậu
Tuất
Ngọ
T.Phúc
Dậu
Thân
Hợi
Mão
Dần
Ngọ 
Tỵ
NGọ
Tỵ
Lưu Hà
Dậu
Tuất
Mùi
Thìn
Tỵ
Ngọ
Thân
Mão
Hợi
Dần
T.Trù
Tỵ
Ngọ
Tỵ
Ngọ
Thân
Dần
Ngọ
Dậu
Tuất
H.Lộc
Liêm
Đồng
Nguyệt
Tham
Nhật
Cự
Lương
Phá
H.Quyền
Phá
Lương
Đồng
Nguyệt
Tham
Nhật
Tử Vi
Cự
H.Khoa
Tử Vi
Xương
Hữu
Lương
Đồng
Khúc
Tả
Nguyệt
H.Kỵ
Nhật
Nguyệt
Liêm
Cự
Khúc
Nguyệt
Xương
Tham
  7.Những sao an theo hàng Chi năm sinh

Sửu
Dần
Mẹo
Thìn
Tỵ
Ngọ
Mùi
Thân
Dậu
Tuất
Hợi
Long Trì
Thìn
Tỵ
Ngọ
Mùi
Thân
Dậu
Tuất
Hợi
Sửu
Dần
Mẹo
PhượngCác
Tuất
Dậu
Thân
Mùi
Ngọ
Tỵ
Thìn
Mẹo
Dần
Sửu
Hợi
Giải Thần
Tuất
Dậu
Thân
Mùi
Ngọ
Tỵ
Thìn
Mẹo
Dần
Sửu
Hợi
Thiên Khốc
Ngọ
Tỵ
Thìn
Mẹo
Dần
Sửu
Hợi
Tuất
Dậu
Thân
Mùi
Thiên Hư
Ngọ
Mùi
Thân
Dậu
Tuất
Hợi
Sửu
Dần
Mẹo
Thìn
Tỵ
Thiên Đức
Dậu
Tuất
Hợi
Sửu
Dần
Mẹo
Thìn
Tỵ
Ngọ
Mùi
Thân
Nguyệt Đức
Tỵ
Ngọ
Mùi
Thân
Dậu
Tuất
Hợi
Sửu
Dần
Mẹo
Thìn
Hồng Loan
Mẹo
Dân
Sửu
Hợi
Tuất
Dậu
Thân
Mùi
Ngọ
Tỵ
Thìn
Thiên Hỷ
Dậu
Thân
Mùi
Ngọ
Tỵ
Thìn
Mẹo
Dần
Sửu
Hợi
Tuất
Cô Thần
Dần
Dần
Tỵ
Tỵ
Tỵ
Thân
Thân
Thân
Hợi
Hợi
Hợi
Dần
Quả Tú
Tuất
Tuất
Sửu
Sửu
Sửu
Thìn
Thìn
Thìn
Mùi
Mùi
Mùi
Tuất
Đào Hoa
Dậu
Ngọ
Mẹo
Dậu
Ngọ
Mẹo
Dậu
Ngọ
Mẹo
Thiên Mã
Dần
Hợi
Thân
Tỵ
Dần
Hợi
Thân
Tỵ
Dần
Hợi
Thần
Tỵ
Kiếp Sát
Tỵ
Dần
Hợi
Thân
Tỵ
Dần
Hợi
Thân
Tỵ
Dần
Hợi
Thân
Hoa cái
Thìn
sửu
Tuất
Mùi
Thìn
Sửu
Tuất
Mùi
Thìn
Sửu
Tuất
Mùi
Phá Toái
Tỵ
Sửu
Dậu
Tỵ
Sửu
Dậu
Tỵ
Sửu
Dậu
Tỵ
Sửu
Dậu
T.Không
Sửu
Dần
Mẹo
Thìn
Tỵ
Ngọ
Mùi
Thân
Dậu
Tuất
Hợi
8. Những sao an theo tháng sinh

Tả Phù
Hữu Bật
Thiên Hình
Thiên Riêu
Thiên Y
Thiên Giải
Địa Giải
 1
Thìn
Tuất
Dậu
Sửu
Sửu
Thân
Mùi
 2
Tỵ
Dậu
Tuất
Dần
Dần
Dậu
Thân
 3
Ngọ
Thân
Hợi
Mẹo
Mẹo
Tuất
Dậu
 4
Mùi
Mùi
Thìn
Thìn
Hợi
Tuất
 5
Thân
Ngọ
Sửu
Tỵ
Tỵ
Hợi
 6
Dậu
Tỵ
Dần
Ngọ
Ngọ
Sửu
 7
Tuất
Thìn
Mẹo
Mùi
Mùi
Dần
Sửu
 8
Hợi
Mẹo
Thìn
Thân
Thân
Mẹo
Dần
 9
Dần
Tỵ
Dậu
Dậu
Thìn
Mẹo
 10
Sửu
Sửu
Ngọ
Tuất
Tuất
Tỵ
Thìn
 11
Dần
Mùi
Hợi
Hợi
Ngọ
Tỵ
 12
Mẹo
Hợi
Thân
Mùi
Ngọ
9. Những sao an theo giờ sinh
Giờ
Văn Xương
Văn Khúc
Thai Phụ
Phong Cáo
Địa Không
Địa Kiếp
Tuất
Thìn
Ngọ
Dần
Hợi
Hợi
Sửu
Dậu
Tỵ
Mùi
Mẹo
Tuất
Dần
Thân
Ngọ
Thân
Thìn
Dậu
Sửu
Mẹo
Mùi
Mùi
Dậu
Tỵ
Thân
Dần
Thìn
Ngọ
Thân
Tuất
Ngọ
Mùi
Mẹo
Tỵ
Tỵ
Dậu
Hợi
Mùi
Ngọ
Thìn
Ngọ
Thìn
Tuât
Thân
Tỵ
Tỵ
Mùi
Mẹo
Hợi
Sửu
Dậu
Thìn
Ngọ
Thân
Dần
Dần
Tuất
Mẹo
Mùi
Dậu
Sửu
Sửu
Mẹo
Hợi
Dần
Thân
Tuât
Dần
Thìn
sửu
Dậu
Hợi
Hợi
Mẹo
Tỵ
Sửu
Tuất
10. An Hỏa Tinh, Linh Tinh
- Tuổi Dần, Ngọ, Tuất : Hoả Tinh từ Sửu, Linh Tinh từ Mão
- Tuổi Thân, Tý, Thìn : Hỏa Tinh từ Dần, Linh Tinh từ Tuất
- Tuổi Tỵ, Dậu, Sửu : Hỏa Tinh ở Mão, Linh Tinh ở Tuất
- Tuổi Hợi, Mão, Mùi : Hoả Tinh ở Dậu, Linh Tinh ở Tuất
- Dương Nam, Âm Nữ tính thuận đến giờ sinh an Hoả, tính nghịch đến giờ sinh an Linh.
- Âm Nam, Dương Nữ, tính nghịch đến giờ sinh an Hoả, tính thuận đến giờ sinh an Linh

10. An Tam Thai, Bát Tọa

-
Từ Tả, đi thuận đến ngày sinh, an Tam Thai
- Từ Hữu, đi nghịch đến ngày sinh, an Bát Tọa

11. An Ân Quang, Thiên Quý
-
Từ Xương, thuận đến ngày sinh, bù 1 cung, an Ân Quang
- Từ Khúc, nghịch đến ngày sinh, bù 1 cung, an Thiên Quý


12. An Tuần, Triệt
a. Tuần
   
Giáp Tý đến Quý Dậu: Tuất - Hợi
    Giáp Tuất đến Qúy Mùi: Thân – Dậu
    Giáp Thân đến Qúy Tị: Ngọ - Mùi
    Giáp Ngọ đên Qúy Mão: Thìn - Tị
    Giáp Thìn đến Qúy Sưủ: Dần - Mậu
    Giáp Dần đến Qúy Hợi: Tý – Sửu

b. Triệt
   
Hàng Can       Cung An Triệt
   
Giáp, Kỷ             Thân - Dậu
    Ất, Canh             Ngọ - Mùi
    Bính, Tân           Thìn - Tị
    Đinh, Nhâm        Dần - Mão
    Mậu, Qúy           Tý - Sửu


13. An các sao cố định
- Đẩu quân : Từ cung an Thái Tuế, kể là tháng giêng, đếm nghịch đến tháng sinh, ngừng lại ở cung nào thì kể là giờ Tý, tính thuận đến giờ sinh, an Đẩu quân.
- Thiên Tài: Từ cung an Mệnh kể là năm Tý, tính thuận đến năm sinh, an Thiên Tài.
- Thiên Thọ: Từ cung an Thân kể là năm Tý, tính thuận đến năm sinh, an Thiên thọ.
- Thiên la: Thìn
- Địa võng: Tuất
- Thiên Thương: Nô bộc
- Thiên Sứ: Tật ách
IV. LUẬN SỐ

CÁCH LUẬN SỐ MỆNH
Trước khi đi vào luận đoán số mệnh, chúng ta cần phaỉ thuộc kỷ tính tinh, âm dương; đất đứng, nơi sinh, sự tương quan giữa các sao. Sau đó xét kỹ từng cung để tìm rõ bài giải thì quyết chắc khó đoán sai được. Nếu công việc học hỏi không thận trọng thì chớ vội đoán bừa sẽ đưa đến sự sai lạc có hại rất lớn với kẻ dễ tin, vì sẽ gây một ấn tượng lầm lạc trong tâm trí họ. Bởi thế nên biết rõ cái gì thì nói, cái chưa rõ hãy ngừng.
Sau đây xin kễ rõ các chi tiết  giúp vào việc luận đoán:
1. Rà soát lại giờ sinh
2. Nhận rõ cách cuộc lập thành ơ 12 cung
3. Xem về mệnh ở vào sinh; Vượng, Bại, Tuyệt địa
4. Luận về Mệnh và Thân
5. Nhận định về giờ sinh, mùa sinh
6. Luận về các cách ở Mệnh, Thân
7. Luận  SAO, CUNG, MỆNH, có hợp phương hướng, âm dương, nơi sinh không
8. Đoán rõ 12 cung từ Mệnh đến Phụ mẫu
9. Lưu Tuần, Triệt – Phi cửu tinh – Lưu Nhật, Nguyệt
10. Lưu đoán Đại; Tiểu hạn hay dỡ
11. Thái tuế lưu niên từng tiểu hạn.
12. Liên hệ giữa Mệnh, Thân và hạn
13. Liên hệ giữa tuổi, Cung, Sao và Hạn
14. Anh hưởng sao nhập hạn.
15. Luận đoán về hạn chết.
1. RÀ SOÁT GIỜ SINH      
a. Giờ kim xà:
- Nếu người sinh ra nhằm giở Kim xà thì chết yểu, nếu xem kỷ cung Phúc có nhiều yếu tố cứu vãng thì cũng qua được nhưng phải ngoài 12 tuổi mới chắc là thoát được nạn Kim xà thiết tỏa.
- Muốn tìm giờ Kim xà thì theo bài thi sau đây:
Đương tòng Tuất thượng khởi Tí niên,
Nguyệt nghịch suy. Thuận số hành niên,
Nhật hựu thuận hề, Thời nghịch chuyển
Tiểu nhi thọ yểu khả tiên tri
Cước:
Bắt từ cung Tuất gọi là Tí tính thuận đến năm sinh, từ đó lại kể là tháng Giêng tính nghịch lai đến tháng sinh. Từ đó lại kể là Mùng một tính thuận lại ngày sinh. Tự chỗ ngày sinh lại tính nghịch lại đến giờ sinh; nếu gặp ở trong 4 cung Thìn, T uất, Sửu, Mùi thì gọi là gặp giờ KIM XÀ THIẾT HỎA. Nếu con trai vào cung Thìn hay Tuất là Kỵ.  Con Gái vào cung Sửu hay Mùi là kỵ. Tất khó nuôi.
b. Giờ Quan sát
Nếu gặp giờ Quan sat thì trẻ ốm yếu luôn . Giờ Quan sát được tìm như sau:
Tháng 1 đẻ giờ Tỵ
Tháng 2 -------- Ngọ
Tháng 3 -------- Mùi
Tháng 4 -------- Thân
Tháng 5 -------- Dậu
Tháng 6 -------- Tuất
Tháng 7 -------- Hợi
Tháng 8 -------- Tí
Tháng 9 -------- Sửu
Tháng 10 -------- Dần
Tháng 11 -------- Mão
Tháng 12 -------- Thìn
c. Giờ Tướng quân:
 - Đẻ gặp giờ Tướng quân, trẻ hay khóc,  thường lên kinh, nhưng không có gì nguy đên tính mạng.
- Cách tìm giờ Tướng quân như sau:
Mùa Xuân đẻ vào giờ Thìn Tuất, Dậu
Mùa Hạ ----------------- Tí, Mão, Mùi
Mùa Thu ----------------- Dần, Ngọ, Sửu
Mùa Đông --------------- Thân, Tỵ, Hợi
d. Giờ Diêm Vương:
- Đẻ gặp giờ Diêm Vương thì trẻ hay giật mình, nhất là về ban đêm, có khi nổi kinh hoài, trợn mắt lên; nhưng vẫn nuôi được yên ổn.
- Cách tìm giờ Diêm vương như sau:
Mùa Xuân sinh vào giờ Sửu Mùi
Mùa Hạ ----------------- Thìn, Tuất
Mùa Thu ---------------- Tí, Ngọ
Mùa Đông --------------- Mão, Dậu.
e. Giờ Dạ đề:
Sinh vào giờ Dạ đề thì trẻ hay khóc đem mà ngày thì ngủ yên lắm.
Cách tìm giờ Dạ đề như sau:
Mùa Xuân sinh vào giờ Ngọ
Mùa Hạ ----------------- Dậu
Mùa Thu ----------------- Tí
Mùa Đông ----------------- Mão 
2. CÁCH CUỘC LẬP THÀNH Ở 12 CUNG  
A. Quý cách
1. Tử, Phủ đồng cung cách (đóng ở Mệnh hay Thân)
2. Phủ, Tướng triều viên cách (tất cả đóng ở Mệnh)
3. Tham, Vũ đồng hành cách (đóng ở Sửu, Mùi có Mệnh)
4. Sát, Liêm, Tham, Phá, cách
5. Cơ, Nguyệt, Đồ, Lương cách
6. Cơ, Cự, Đồng, Lương cách .
7. Tử, Phủ, Vũ, Tướng cách.
8. Nhật, Nguyệt đồng cung cách
9. Cư, Nhật đồng cách (ở Dần tốt hơn ở Thân)
10. Cự, Cơ đồng cung cách (ở Mão, Dậu)
11. Tả, Hữu đồng cung cách
12. Tam Hóa Liên châu cách (tức Khoa, Quyền, Lộc đi liền 3 đến cung Mệnh có 1 hóa)
13. Văn Quế, Văn hoa cách (Tức Xương, Khúc đồng cung, ở Sửu, Mùi thì thượng cách.)
14. Liêm Trinh văn võ cách (tức Vũ khúc nhập miếu hợp Xương khúc thì văn võ toàn tài) 
15. Vũ khúc văn võ cách (tức vũ Khúc nhập miếu hợp Xương, Khúc)
16. Thiên ất quí nhân cách (Khôi, Việt chiếu mệnh)
17. Quí tinh giáp Mệnh cách (tức Mệnh có Thiên phủ ở Mùi Sửu mà giáp Nhật, Nguyệt hoặc ở bất cứ cung nào mà giáp Tả, hữu, Xương, Khúc, Khoa, Quyền, Khôi, Việt, Long, Phượng được một trong cách ấy đều tốt.
18. Nguyệt, Đồng, Cơ, Cự cách.
19. Phá, Liêm, Mão, Dậu cách (Phá, đóng Mệnh ở Mão, Dậu mới hợp cách tốt, ở các cung khác thì không lợi)
20. Lộc, Mã giao tri cách (ở Mệnh, Tài, Quan, Thiên di đều tốt)
21. Nhật, Nguyệt tinh minh cách (Nhật ở Thìn, Tỵ, Nguyệt ở Dậu, Tuất, mà Mệnh đóng ở Nguyệt hay Nhật đều tốt)
22. Nhật lệ trung thiên cách ( Nhật cư Ngọ có Mệnh)
23. Nhật chiếu lôi môn cách (Nhật ở Mão có Mệnh)
24. Nguyệt lãng thiên môn cách (Nguyệt ở Hợi có Mệnh)
25. Song Lộc cách (cùng đóng ở Mệnh đẹp hơn chiếu về)
26. Lộc hội Khoa Quyền cách (Tức Tam Hóa triều)
27. Tiền, cái hậu Mã cách (Tức cung trước cung Mệnh có Hoa cái, sau cung mệnh có Thiên mã là cách người cao quí sang trọng đi ngựa có lộng che)
28. Nhật, Nguyệt chiếu bích cách (Tức ở Sửu chiếu lên Mùi có Mệnh, hoặc ở Mùi chiếu xuống Sửu có Mệnh)
29. Vũ, Lộc giáp Mã cách (Cung Mệnh có Mã giúp lại có Vũ khúc và Hóa lộc hay Lộc tồn)
30. Kim dư phù giá cách (Tử vi tại mệnh hay Quan lộc mà giáp Tả Hữu, Thiếu dương, Thiếu âm là xe vàng vua đi)
31. Phụ, Bật củng đế cách (Cung Mệnh hay Quan có Tử vi mà Tả phụ, H ữu bật hợp chiếu)
32. Quần Thần khách hội cách (Tử vi gặp toàn cát tinh hội)
33. Vũ khúc thủ viên (ở cung Mão gặp cát tinh hội với Vũ khúc mới giàu sang. Ơ các cung khác tầm thường)
34. Thất sát triều đầu cách ( ở Dần, Thân có Mệnh)
35. Thất sát ngưỡng đầu cách (tức Thất sát cứ Ngọ)
36. Tham, Hỏa tương hội Tứ mộ cách ( Mệnh hay Quan đóng ở Tứ mộ có Tham, Hỏa hội phát võ hay kinh thương)
37. Phá quân Tí, Ngọ cách (Hoạnh phát; nhưng cũng hoạnh phá)
38. Tả, Hữu, Tứ mộ cách.
39. Nguyệt sinh thương hải cách (Tức Nguyệt tại Tí) cách này còn gọi là Mệnh châu xuất hải.
40. Lộc mã bội án (Mệnh hay cung Quan có Thiên tướng miếu địa, lại có Lộc, Mã giáp cung)
41. Liêm, Kình giáp Ấn (Tức Mệnh hay Quan có Quốc ấn đóng mà cung giáp đại phát võ công)
42. Kình dương nhập miếu (Tức Kình đóng ở Tứ Mộ gặp tuổi Tứ mộ)
43. Tài Ấn giáp lộc (Cung Mệnh có Lộc, lại giáp cung có Vũ, Tướng)
44. Tứ linh triều mệnh ( Mệnh có chính tinh miếu vượng địa, gặp Cái, Hổ, Phượng, Long hội phát công danh)
45. Tọa quí, hướng quí (Mệnh có Khôi đóng, gặp Việt chiếu, hoặc có Việt gặp Khôi chiếu)
46. Văn tinh ám củng (Mệnh gặp Khôi Việt, Xương Khúc, Tuế hội và lưỡng hợp có Hóa Quyền, Khoa, Lộc)
47. Minh lộc, Ấm lộc (cũng gọi là Uyên ương lộc hội, tức cung Mệnh có Lộc, cung nhị hợp có Tồn, hoặc ngược lại)
48. Hổ hàm kiếm cách (Thiên hinh đang ở Dần có mệnh tại đó)
49. Chúng thuỷ triều đang cách (Mệnh tại Mão, Dậu có song Hao)
50. Lộc mã giao trì cách (Lộc mã đòng cung có mệnh)
51. Cơ, Lương,Thìn, Tuất.
B. Bần tiện cách
1. Sinh bất phùng thời (Liêm đóng mệnh tại Dần, Thân gặp Tuần, Triệt án ngữ)
2. Thất sinh cô bần (Phá đóng Mệnh tại Dần, Thân gặp sát tinh)
3. Quân Tử tại đã (Mệnh bị sát tinh, hung tinh hội)
4. Lộc phùng lương sát cung. (Lộc tồn hay Hóa lộc ở Mệnh gặp Không Kiếp đồng cung)
5. Mã lạc không vong (Mã tại Mệnh gặp Tuần, Triệt án ngữ)
6. Tài dữ tù cừu (Vũ hay Liêm hãm tại Mệnh lại gặp sát tinh)
7. Nhật, Nguyệt t hoặc hãm mà àn hung (Nhật Nguyệt hãm tại Mệnh mà không có cứu tinh, gặp sát tinh)
8. Lưỡng trùng Hoa cái (Y như cách Lộc phùng lưỡng sát)
9. Không, Kiếp sát hội (Mệnh gặp Không, Kiếp hãm hội Sát tinh)

3. SINH ĐỊA, BẠI ĐỊA, TUYỆT ĐỊA
Việc tìm hiểu sinh địa, Vượng địa, hay Bại địa, Tuyệt đại đối với một lá số rất cần. Vì có nhiều số tốt mà gặp Bại hay Tuyệt địa thì cuộc đời chìm nổi vô thường. Vậy muốn biết rõ: hiểu bại thế nào xem bản thì sẽ rõ:
Hành mệnh
Sinh địa
Vượng địa
Bại địa
Tuyệt địa
Mệnh an tại
Kim
Tỵ
Dậu
Ngọ
Dần
Mộc
Hợi
Mão
Thân
Hỏa
Dần
Ngọ
Mão
Hợi
Thổ - Thủy
Thân
Dậu
Tỵ
 
Gặp Bại địa và Tuyệt địa cần được cứu giải băng Tam hóa hội hay cần có Chính Diệu ở đó được sanh bản mệnh theo Ngũ hành, thì gọi là Tuyệt xứ Phùng sinh. Nếu không thì cuộc đời thăng trầm đáng ngại.
 
4. LUẬN VỀ MỆNH, THÂN   
Mệnh và năm sinh an vào mỗi cung có ảnh hưởng cho sự hưng suy thành bại. Bởi đó khi an xong lá số, ta cần xét rõ các lẽ sau đây:
-  Đàn ông sinh năm Ngọ, Mùi mà mệnh an tại cung Tí Sửu thì trọn đời gặp nhưng việc bất toại ý.
-  Mệnh Thân đồng cung ở Tứ Mộ lại Vô Chính Diệu mà không Tuần Triệt thiếu trung tinh hội thì chắc cùng khổ và yểu. Tại Tí Ngọ Vô Chính Diệu nếu có Hóa Lộc toạ thì giàu nhưng giảm thọ. Trái lai nếu không Hóa Lộc thì nghèo mà thọ.
- Mệnh Tuần, Thân Triệt thì ở Mệnh hay Thân rất cần có Cơ Nguyệt Đồng Lương sáng sủa thì đời mới được xứng ý toại lòng, đến già an nhàn.
-  Mệnh Triệt, Thân Tuần thì Mệnh Thân rất cần Vô Chính Diệu thì mới  toại ý.
-  Mệnh Không, Thân Kiếp là người không ngoan sắc sảo nhưng trong đời vui ít buồn nhiều, mưu sự thành bại thất thường. Ơ đây nếu Mệnh vô chính Diệu lại có Đại Tiểu Hao hội là người tuy ít hoc nhưng cũng đạt được công danh, sự nghiệp hiển đạt. Trong trường hợp này nếu Mệnh hay Thân có Thiên Đồng, Thiên Lương hay Phá Quân thì không thể sống lâu được.
-  Đàn bà mà Mệnh an ở Tứ Mộ thì khôn ngoan. Mệnh an ở Dậu ra ngoài nhiều người mến vi. Mệnh an ở Tí Ngọ trọn đời nhàn.
 
 
Mệnh vượng
Mệnh tướng
Mệnh Mộc sinh mùa xuân
Mệnh Hỏa sinh mùa xuân
Mệnh Hỏa sinh mùa hạ
Mệnh Thổ sinh mùa hạ
Mệnh Kim sinh mùa thu
Mệnh Thủy sinh mùa thu
Mệnh Thủy sinh mùa đông
Mệnh Mộc sinh mùa đông
 
b. Thuận giờ sinh:
Sinh mùa xuân vào giờ Dậu, Thìn, Tỵ
Sinh mùa Hạ vào giờ Mão, Mùi, Hợi
Sinh mùa Thu vào giờ Ngọ, Thân, Dần
Sinh mùa Đông vào giờ Sửu, Tuất, Tí
Được thuận giờ sinh độ số gia tăng.
c. Giờ sinh thuận lý hay nghịch lý
Sinh vào giờ Dương mà an mệnh tại cung Dương là thuận lý. Trái lại là Nghịch lý. Sinh vào giờ thuộc Am mà Mệnh an tại cung âm la thuận lý. Trái lại là nghịch lý.
Thuận lý thì độ số gia tăng, mà nghịch lý thì bị kém bớt.
d. Năm sinh và giờ sinh
- Tuổi Dần, Ngọ, Tỵ, Dậu mà sinh giờ Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì tối độc. Khắc cha phải đến 16 tuổi mới khỏi sự
- Tuổi Dần, Hợi, Tý mà sinh giờ Ngọ, Thân, Dậu, Hợi thì âu lo về sự mồ côi cha.
- Tuổi Thìn, Tỵ, Sửu, Mùi sinh giờ Tí, Ngọ, Mão, Tỵ, Hợi, Thân, Dậu khắc mẹ, tất nhiên Mẹ chết trước.
 
6.  LUẬN CÁC CÁCH Ở MỆNH THÂN  
a. Phi thường cách:
-  Mệnh Tử, Phủ, Vũ, Tướng nhập miếu hội cát tinh (như Tả Hữu, Khôi, Tam Hóa, Xương Khúc, Long Phượng, Hồng Đào).
-  Thân thì Sát, Phá, Liêm, Tham nhập miếu, vượng địa, hội cát tinh (như Tả Hữu, Khôi Việt, Xương, Khúc, Long Phượng, Hồng Đào, Khoa, Quyền, Lộc, Kình, Không, Kiếp, Hình, Hổ) phát đến Vương, Tể.
b. Thượng cách:
Có những cách sau đây đóng Mệnh Thân:
-   Tử, Phủ, Vũ, Tưóng, Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương, Sát, Phá, Liêm, Tham.
-  Cự, Nhật, Nhật, Nguỵet đồng cung. Tất cả những cách này cần được nhập miếu hay vượng địa, đắc địa hội Tả, Hữu, Xương Khúc, Khôi Việt, Long, Phượng, Hồng Đào, Tam Hóa, phát đến Tam công.
-  Lưỡng Tướng nhập miếu, vượng địa, đắc địa hội Thiên mã, Thiên phúc, Văn xương, đồng cung là cách "Bạch ốc phát công danh".
-  Tử, Phủ, Vũ, Tướng đóng Mệnh hội cát tinh. Có Tử vi, Hóa khoa, Tả Hữu, Thai toạ, Thanh Long, Lộc tồn đóng cung Quan Lộc, là bậc cự thương.
Mệnh vô chính diệu đắc tam không (Tuần, Triệt, Thiên, Địa không hội cát tinh, có Nhật, Nguyệt chiếu phát công khanh)
c. Trung cách:
Tức Mệnh, Cục tương khắc, âm dương nghịch lý, Chinh diệu cùng cung tương phản, hay lạc hãm, theo cách dưới đây:
-  Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương hội Tả Hữu, Quang Quí, Thiên quan, Thiên phúc, thì làm thầy thuốc giỏi.
-  Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương hội Tả Hữu, Khôi Viêt, Khoa, Quyền, Xương Khúc, Tấu thư thì giỏi về dạy học, viết văn.
-  Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương hội Tả Hữu, Xương Khúc làm nghề ấn loát công nghệ hay thương gia khá.
-  Tử, phủ, Vũ, Tướng, hội Long, Phượng, Tả, Hữu, Hình, Riêu thì làm thợ rất tinh vi, nhất là chạm trổ, điêu khắc.
-  Thiên cơ hội Vũ, Hồng, Tấu làm thợ thêu; may rất khéo. 
-  Thiên cơ hội Hông, Đào, Riêu, Tấu là hạng nghệ sỹ
-  Sát, Phá, Liêm, Tham hội Hồng, Đào, Tấu, Long Phượng làm thợ vẽ hay hoạ sĩ có biệt tài.
-  Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương hội Tả Hữu, Thai Cáo, Xương Khúc tất là hàng công chức thường
-  Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương hôi Tướng, An, Long, Phượng, Phù làm thầy cúng, đồng bóng.
-  Sát, Phá, Liêm, Tham hội Nhật Nguyệt hãm và Tả Hữu, Quyền, Lộc thì làm thầy tướng hay thầy bói.
-  Thiên đồng hội Hình, Riêu, Hồng, Đào, Long, Phượng thì mê đồng bóng.
-  Thiên Tướng hội Tả Hữu, Tướng, Ân, Quan phù đi tu  thăng đến Hòa thượng
d. Hạ cách
Có những cách chính tinh như trên, nhưng không gặp được cát tinh hội đủ bộ, mà lại gặp Hung tinh và sát tinh đóng.
- Ví dụ: Sát Phá Liêm Tham hội Vũ, Kình Đà, Thiên địa Không sát, Song Hao, Hóa Kỵ. Tất cả chính tinh cùng hung tinh sát tinh nhiều ở vào nơi hãm địa
- Gặp phải cách ấy thì thật suốt đời lao khổ, chịu tật nguyền, hoặc lang thang lo miếng ăn từng bữa.
Chú ý: Khi xem lá số cho một người về cuộc đời họ phải chú trọng 3 cung này : PHÚC MỆNH QUAN và THÂN cư cung nào. Sau đó mới xem kỷ đến cung Tài, Điền và Thiên di, Giải ách để làm một tổng hợp luận đoán mới xác đáng được, về sự Thọ yểu, Giàu sang Quan tước, Thông minh, Bần tiện. Hoang đàng, Tàng Tật, Vũ chức, Thương nhân, Kỹ nghệ, Tu hành, trôm cướp.v.v. .
@  Phúc thọ cách:
-  Được Đồng Lương đóng Mệnh tại Dần Thân hôi phúc tinh, cát tinh, nhất là người sinh thuộc nam phương, tuổi Tỵ, Ngọ, Mùi. Hoặc Mệnh có Tư, Phủ, Tướng, Vũ, hay Phá Liêm Tham.
-  Tham miếu địa, đắc đị, hội cát tinh, không gặp hung tinh, sát tinh hãm thất là ngươi sinh phương Bắc tuổi Hợi, Tí, Sửu. Trong khi ấy cung Phúc sáng sủa, cung Giải ách không mờ ám.
@ Thông minh cách:
- Mệnh thân có Phù, Tướng, Triều viên đắc địa, hội Khôi Việt, Xương Khúc, Tả Hữu, Long Phượng, Thai, Tuế mà không gặp Tuần, Triệt, Thiên Địa Không. Được thế thì thông minh tuyệt chúng. Bằng không thì Mệnh Thân có Tướng. Phá miếu,
vượng địa hội văn tinh như Xương Khúc, Khôi Việt, Tả Hữu, Quang quí. Trong khi ấy cung Phúc cũng rất thông minh.
@ Số giàu sang
-  Mệnh, thân không bị sát tinh đóng. Cung Điền Tài, lại có Nguyệt đắc địa, hay có Vũ khúc đóng ở cung Tứ mộ, hội lưỡng Lộc cùng các tài tinh.
@ Văn chức cách:
-  Ba cung Mệnh, Thân, Quan cần có Xương Khúc, Khôi Việt, Tả Hữu, đóng và có Tam Hóa triều về, tất nhiên công danh thành đạt.
 @ Võ chức cách:
-  Mệnh, Thân Quan có Vũ, Tướng, Sát, Phá, Liêm Tham đắc địa lại hội Khôi, Việt, Tả Hữu, Thai Tọa, Khoa, Quyền, Lộc, Bính, Hình, Tướng, An.
@ Kinh thương cách:
-  Người mà Mệnh có cự Nhật hay Tử Phủ đắc địa là hạng thẳng thắng, không có mưu tính quanh co, tất không thể làm thương mại đựơc. Trong trường hợp nếu
Mệnh hay Thân có Tử, Phủ đắc địa mà gặp Kình dương đồng cung thì lại trở nên một thương gia giỏi.
-  Hoặc mệnh có Nguyệt, Tham, Đồng, Sát, Cơ, Lương đắc địa mà cung Tài hay cung Thiên có tài tinh nếu Lộc, Mã, Vũ đống sáng sủa thì ắt hạng cự thương. 
-  Hoặc là mệnh có Sát, Phá, Liêm, đắc địa gặp Tả Hữu và cát tinh đắc địa thì cũng chuyên về kinh thương. Nhưng phải về sau mới thành đạt vẻ vang.
-  Hoặc là Mệnh Thân, Thiên di hay Tài bạch an tai Tứ sinh (Dần, Thân, Tỵ, Hợi) có Không, Kiếp tạo thủ là người giỏi về buôn đồ quốc cấm, hàng lậu.
-  Người có cung Thiên di an tại Tứ mộ (Thìn, Tuất, Sửu, Mùi) mà có Vũ khúc hợp Lộc hay cùng lộc thì buôn bán hoạnh phát.
@  Kỹ nghệ cách:
-  Mệnh có Tham vũ đắc địa gặp Sát, Kình hội, làm kỷ nghệ tinh khéo.
-  Hoặc Mệnh Thânở cung Hợi Tỵ có Vũ, Phá đồng cung
-  Hoặc Mệnh Thân tại Dậu, Mão, có Liêm Phá đồng cung
-  Mệnh, Thân có Cơ hội Tướng, mà Tài cung an ở Tứ mộ có các Lộc hội chiếu hoặc toạ thủ, hoặc có Vũ khúc là người rất tinh về máy móc, có tài sáng tác kỷ nghệ.
-  Mệnh Thân đóng ở Tỵ, Hợi có Liêm, Tham mà gặp sát tinh hội la số gần xiềng xích, nên chỉ chuyên về nghề thợ sắt hay thợ ren, thợ đúc, hay làm đồ tể. Nếu sát tinh được sáng sủa thì cũng tránh được nhiều khốn khổ và phát đạt.
@ Văn chương cách:
-  Trong 3 cung Mệnh Quan và Thân có nhiều văn tinh hội như Xương Khúc, Tả Hữu, Khôi Việt thì giỏi về văn chương, thơ phú
-  Nếu có Tả Hữu, Long Phượng, Đào Hồng, Thai Tọa thì là Họa sĩ
-  Nếu hội Long Phượng, Xương Khúc, Hồng Đào, Tấu, Riêu thì giỏi về Ca nhạc, vũ kịch.
@ Cách tu hành:
-  Mệnh Thân an tại Mão, Dậu có Tử, Tham, đồng cung lại gặp Không, Kiếp, hoặc là Thiên phủ gặp Tam Không.
-  Hoặc là Mệnh vô chính diệu mà gặp phải nhiều sát tinh hội là kẻ thích lánh mùi tục luỵ.
-  Nên chú ý khi xem thấy Mệnh Thân như trên thì cần rà soát lại 3 cung Phụ mẫu, Phối và Tử có phải là thật xấu xa mờ ám không thì mới hợp với cung Mệnh Thân rõ cách tu hành.
@ Bần tiện cách:
-  Mệnh, Thân có Sát, Phá, Liêm, Vũ hãm hội với Kình, Đà, Không Kiếp, Song Hao, Hóa Kỵ, nhất là Mệnh, Thân an tại Tứ sinh mà gặp Tham, Liêm hội sát tinh, trong khi ấy cung Phúc, Tài, Điền, lại mờ ám nữa.
@ Cách Hoang đàng:
-  Mệnh thân có Tham,  Đào, Riêu, Hỉ, Mộc ngộ song Hao thì đam mê tửu sắc, chiêu lấy tai ương, nhất là có Kình, Kiếp, Không hội.
@ Cách tàn tật:
-  Mệnh có Kình, hay Đà tọa thủ, Thân lại gặp Linh Hỏa Không Kiếp, Kiếp sát thì mang thương tật. Trong khi ấy phải cần xét kỹ cung Phúc và cung Giải ách có nhiều cát tinh hay hung tinh, sát tinh hãm thì mới quyết đoán được.
-  Còn bị tật ách về bộ phần nào thì cần xem sao chính thủ tại đó làm biểu tượng. (Hãy xem bản kê rõ các biểu tượng sao ở sau)
@ Cách yểu
-  Xem cung Phúc, Mệnh, Thân đều mờ ám cung Giải ách hội sát tinh và hung tinh, mà đại hạn trong 10 năm đầu gặp phải cách hung sát thì khó lòng sống qua được giai đoạn đại hạn ấy
@ Cách trộm cướp
-  Cung Mệnh có Sát, Phá Liêm Tham hãm địa lại gặp sát tinh hội (tứ sát, lục bại) thì là hạng trộm cướp, gian tà, giết người không ghê tay.
 
7. LUẬN VỀ SAO - CUNG - MỆNH 
-  Xem về cung an Mệnh: Nếu Mệnh người thuộc Dương cư cung Dương. Mệnh âm cư cung âm thì đọ số gia tăng tốt thêm. Nếu nghịch lại thì độ số có bị chiết giảm ít nhiều.
-  Lạc hãm: Khi nào xem hành của sung khắc hành của Sao là lạc hãm nếu vừa lạc hãm lại gặp Tuần Triệt nữa thì càng thêm xấu. Trái lại nếu ở đó có một chính tinh nữa mà sanh được cung thì trở thành đẹp. Ví dụ sao Văn xương là Kim mà đóng ở cung Ngọ và Hỏa là lạc hãm, song nếu gặp chính tinh là Thiên cơ thuộc mộc đóng ở đó thì hóa tốt.
-  Chính tinh cũng an mệnh hay hành của mệnh sinh chính tinh thì đọ số kém tốt bớt.
-  Cung Mệnh khắc chính tinh hay chính tinh khăc hành của Mệnh thì độ số càng kém.
-  Hành của cung Mệnh hay cung Thân sinh hành của sao, sao lại sinh được hành của bản mệnh thì tốt, song nếu gặp hai sao sinh khắc lại kém đi.
-  Mệnh có sao hãm địa mà hợp được với hành của Mệnh cũng trở thành khá hơn. Trái lại đựơc sao đắc địa mà không hợp với hành của Mệnh thì kém đi.
-  Sao và mệnh có hợp phương hướng, nơi sinh không (đô thị, thôn dã, sơn cước) thì mới tốt được.
-  Về cung sao nhập hạn cũng theo cách luận của ngũ hành sinh khắc y như trên để đoán.