SAO KHÔNG PHẢI LÀ SAO - Ân Quang
Tinh, Diệu, Thần
Tử Vi không phải là một khoa chiêm tinh thuần túy. Vẫn biết rằng khi
tính Tử Vi phải xét đến trên một trăm vị sao, nhưng cũng còn phải xét
đến các yếu tố khác như Âm Dương, Bát Quái, Ngũ Hành sinh khắc... Vì
thế, có thể quan niệm Tử Vi là một "Vũ trụ luận"
Luận về sự tương quan của tất cả các yếu tố trong vũ trụ ảnh hưởng đến
con người. Các vị "sao" chỉ là một trong nhiều yếu tố. Vì vậy mà trong
Tử Vi, có một số tên gọi không phải để chỉ vào một "ông sao" nào.
Thí dụ như Thiếu Âm, Thiếu Dương là để chỉ về một khí lực trong vũ trụ
trong Tứ tượng (Thái Âm, Thiếu Dương, Thái Dương, Thiếu Âm, Âm tiêu
Dương trưởng) chứ nào có phải để chỉ vào một "ông sao" Thiếu Dương,
Thiếu Âm.
Lại thí dụ như Thanh Long, không phải là tên gọi một "ông sao" Thanh
Long, mà để chỉ về một khí vận, khí lực chung của một chòm sao, tính
cách của khí vận ấy được đặt tên là Thanh Long. Ví như trong Tử Vi Tây
Phương, Hải Sư không phải là một "ông sao" Hải Sư. Mà đó là cái khí lực
khí vận của một chòm sao. Khí vận, khí lực ấy được đặt tên là Hải Sư,
chứ nào có một ông sao Hải Sư.
Tư nhiều năm nay tôi đã gắng công sưu tầm tài liệu để lập một bản "Thiên
Đồ" gồm đầy đủ các vị sao để so sánh với các tên gọi trong Tử Vi. Các
tài liệu mà tôi thu thập được, tuy chưa đầy đủ cho lắm, nhưng khả dĩ
giúp tôi tin chắc rằng có nhiều tên gọi trong Tử Vi không dùng để chỉ
một "ông sao" nào. Tử Vi không phải là khoa chiêm tinh thuần túy. Khoa
này còn luận cả về những yếu tố khác, nhưng tinh lực khí vận khác trong
vũ trụ có ảnh hưởng đến con người.
Tôi cũng có thói quen sưu tầm những lá số Tử Vi đã được lập thành, và
luận đoán bởi các bậc túc nho thuộc thế hệ trước, hoặc tìm cách liên lạc
với các bậc nho học uyên thâm Tử Vi để thu thập các quan điểm các nhau.
Do đó, tôi được biết một quan niệm về Tinh, Diệu, và Thân
Chữ "Tinh" là để gọi đích danh vị sao ấy. Thí dụ như sao Tham Lang, Cự Môn...
Chữ "Diệu" là để chỉ riêng về một khía cạnh, một phương diện của vị sao
ấy. Thí dụ như ngôi sao Phục Vị ở trên trời chỉ là một, chiếu xuống đến
chúng ta, lại thành ra hai ảnh hưởng khác nhau một chút, đó là Tả Phụ và
Hữu Bật. Cũng như Kình, Đà là hai khí lực, luôn luôn ở quanh Lộc Tồn.
Chữ "Diệu" chỉ để nói về một khía cạnh, một phương diện, một phần ảnh
hưởng của vị sao. Có thể ví như cùng là một nguồn sáng từ mặt trời qua
một lăng kính, chúng ta thấy có bảy màu khác nhau: màu tìm, màu chàm,
màu xanh, màu xanh lá cây, màu vàng, da cam, đỏ. Nhìn vào chỗ này ta
thấy màu xanh, nhìn vào chỗ khác, ta lại thấy màu đỏ. Xanh và đỏ tuy
khác nhau, nhưng xét về nguồn gốc thì vẫn là một. Vì vậy, ở trên trời có
một ngôi sao Phục Vị mà đến quả đất chúng ta thì có hai "Diệu" Tả Phụ
và Hữu Bật. Cũng như ở trên trời, ánh sáng mặt trời chỉ là một, mà qua
đám mây, hoặc qua một đám mưa, chúng ta có thể thấy nhiều màu sắc khác
nhau, có khi phân ra đến bảy màu.
Do những yếu tố trợ lực, những sự chuyển biến tương tự mà bộ Tứ Hóa
(Lộc, Quyền, Khoa, Kỵ) là "Diệu" chứ không phải là "Tinh" hay "Thần".
Với thiên can Mậu thì Tham Lang có thêm một sự chuyển động về Lộc (Hóa
Lộc, chuyển động này đưa đến kết quả tốt hay xấu cò tùy sự kết hợp với
các yếu tố khác). Với thiên can Mậu thì Thái Âm có thêm một sự chuyển
động về Quyền. Chứ không phải là hễ gặp tuổi Mậu thì "ông sao" Hóa Lộc
di chuyển đến ở chung với ông Tham Lang, còn "ông sao" Hóa Quyền thì dọn
nhà đến ở chung với... bà Thái Âm.
Khi đã định rõ sự khác biệt giữa Tinh và Diệu, khi đã có một quan niệm
rõ về Tứ Hóa thuộc loại Hóa "Diệu", lúc ấy mới hiểu được một cách luận
đoán tỷ mỷ về sự khắc hợp.
Bàn về sự khắc hợp giữa vợ chồng cha con
Mạng của hai vợ chồng hợp nhau. Lấy thiên can tuổi ủa người vợ, tính xem
bộ Lộc Tồn, Kình Đà, Khôi Việt, Tuần Triệt, Tứ Hóa nằm vào những cung
nào trong lá số người chồng. Tuy là hợp nhau nhưng cũng không ai được
thập phần hoàn hảo. Lợi nhiều về điểm này thì có sự sút giảm chút ít về
cung khác. Thí dụ mạng của hai vợ chồng hợp nhau. Cung Tài trong lá số
người chồng có Lộc Tồn. Do ảnh hưởng của Thiên Can tuổi người vợ lại
được thêm Hóa Lộc chiếu vào cung Tài, thì sự hợp này sẽ có thêm tiền
tài... cứ như thế mà kết hợp các "sao" để gia giảm các cung khác.
Thí dụ cụ thể: người chồng tuổi Canh Tuất, sinh tháng 6, ngày 4, giờ Dậu, người vợ tuổi Nhâm Tý.
Canh Tuất thuộc Thoa Xuyến Kim, Nhâm Tý thuộc Tang Đỗ Mộc thấy có sự
tương khác dù là khắc ít. Cung Thê của người chồng có Đồng Lương Lộc Mã,
gặp Không Kiếp đắc địa, có Tang Điếu Hư Khốc, Hóa Kị. Người vợ tuổi
Nhâm thì sao Thiên Lương ở cung Thê người chồng có thêm ảnh hưởng của
Hóa Lộc (Hóa "Diệu"). Hai vợ chồng lục đục với nhau suốt đời, nhưng vẫn
ăn nên làm ra, có sự nghiệp vững vàng cho đến lúc chết. Trong cái khắc
vẫn có khi có điểm lợi.
Phương pháp luận đóa này của Cụ tôi, và một số người nghiên cứu Tử Vi
trước kia vẫn áp dụng, thấy rất thâm thúy. Tuy nhiên, cần có một tâm hồn
quảng đại và cần có quan niệm rõ ràng rằng Thiên Can của người hôn phối
chỉ tạo nên ảnh hưởng tương đối, chứ không tạo nên ảnh hưởng quyết
định. Lá số của mình vẫn có ảnh hưởng chính yếu. Đừng vì thấy Thiên Can
của người hôn phối tạo nên Triệt ở Mệnh Thân của mình mà đi đến những ý
nghĩ cố chấp, những thành kiến thất đức. Trong cái khắc vẫn có những
điểm lợi về những phương diện khác. Dù có gặp sự khắc thì cũng tìm biết
được điểm lợi những phương diện nào để phát triển thêm. Tôi sẽ viết thêm
về cách luận đoán này để bạn có thể tìm nguồn an ủi, nhìn thấy rằng
trong cái khắc vẫn có điểm tốt, điểm lợi, do đó sẽ tránh được những ý
nghĩa hẹp hòi.
Trong bài này, tôi hãy xin nói về Tinh, Diệu, Thần.
Chữ Thần là nói chung về Thần khí do nhiều ngôi sao hợp lại, hoặc là chỉ
về một khí lực trong vũ trụ chứ không phải là chỉ riêng một ngôi sao
nào. Thí dụ như Thanh Long không phải là một "ông sao" mà là khí lực của
một chòm sao. HOặc như là Thần khí, trong quẻ Dịch, chúng ta có Nhật
Thần, đây là Thần khí của cái ngày đó, chứ không phải nói về một ông sao
nào.
Vòng Tràng Sinh cũng gọi là Thập nhị Thần, là mười hai khí lực, thần
khí, chứ không phải là mười hai ông Thần. Riêng về vòng Tràng Sinh tôi
xin nói thêm ở đoạn sau bài này.
Tinh, Diệu, Thần tuy ba mà một, tuy một mà ba. Vì thế tôi phải lấy tên
của bài này là "Sao không phải là Sao". Xét về tác dụng, thì cả ba đều
có ảnh hưởng đến vận mệnh con người nên gọi chung là "sao" cho tiện. Xét
về căn nguyên thì có khác nhau. Xét về căn nguyên sẽ có cái lợi là đưa
người nghiên cứu đến chỗ lý giải có ý thức, có quan niệm mạch lạc về các
phương hướng, vai trò, các yếu tố trong một lá số. Chứ không phải chỉ
đoán đúng một vài tiểu tiết nhờ thuộc lòng một số công thức, hoặc đung
đâu đoán đó, rồi nhờ "ông ứng" vẫn tiên tri như Thần.
Tôi quan niệm rằng tư tưởng hướng dẫn hành động. Xem Tử Vi thì cần có
một quan niệm rõ rệt về công dụng, về giá trị của Tử Vi: nó là cái khoa
gì, dùng nó trong trường hợp nào cái tên gọi trong Tử Vi là cái ngụ ý
gì...
Sở dĩ người xưa xem Tử Vi chỉ nói một câu mà đúng chung thân cuộc đời,
là nhờ có một tinh thần diễn dịch rộng rãi, một quan niệm thâm thúy về
các tên gọi trong Tử Vi. Chứ không phải là chỉ dựa vào công thức, thấy
Song Hao hãm thì nói là hao tài, thấy Song Lộc thì đoán là có tài lộc.
Việc này quý bạn nào mới nhập môn Tử Vi cũng có thể đoán được.
Trong cuốn "Mệnh lý nghiên cứu" xuất bản tại Đài Bắc, tác giả có nói
rằng Tinh, Diệu, Thần, tuy ba mà một, đó là xét về tác dụng. Xét về căn
nguyên, chúng ta sẽ có một sự diễn dịch thâm thúy hơn.
Cũng trong cuốn này, tác giả có kể đến Thập cửu chính diệu, đó là: Tử Cơ
Dương Vũ Đồng Liêm Phủ Âm Tham Cự Tướng Lương Sát Phá Tả Hữu Xương Khúc
và Tồn.
Xin quý bạn Tử Vi đừng vội hoang mang trước quan niệm này. Tôi không đề
cao cuốn "Mệnh lý nghiên cứu" như một "Thần Thư" làm tiêu chuẩn để đi
tìm chân lý Tử Vi. Tôi chỉ muốn dẫn chứng rằng Tử Vi không phải chỉ gồm
có một số công thức giản dị, mà còn có nhiều sự diễn dịch sâu xa của
nhiều học giả lý số khác nhau. Điều cần thiết là một sự bình tâm nhẫn
nại tìm hiểu các quan iệm rồi từ các quan niệm ấy, chúng ta sẽ tiến đến
việc nghiên cứu Tử Vi một cách có ý thức chứ không phải chỉ vội vã áp
dụng các công thức một cách nông cạn. Từ quan niệm "Mệnh vô chính diệu
dĩ Mệnh vi chủ, đối tinh vi Tân" đến quan niệm Mệnh vô chính diệu, có
hung tinh sát tinh nổi bật, đến quan niệm Mệnh có chính tinh mà bị khắc
hãm quá, vai trò của chính tinh bị suy yếu, lu mờ, nên ví như vô chính
diệu, phải xét đến các phù trợ tin khác, có biết bao nhiêu quan niệm tế
nhị, mà người nghiên cứu cần tìm hiểu thêm. Không thể vội cố chấp vào
cuốn sách này, hay công thức nọ.
No comments:
Post a Comment
Bạn vui lòng chờ kiểm duyệt