Search This Blog

Sunday, August 5, 2012

Tản mạn Cách cục Linh Xương Đà Vũ

Linh Xương Đà Vũ.

Những người xem tử vi, có lẽ không ai là không biết cái bộ này ?. Sách vở đều cho rằng, gặp bộ này là số: Nào là tự tử, nào là bị bức tử, bị độc tử, …Nhưng có lẽ, khi gặp nó, hầu như chỉ đoán đến thế thôi. Hạn gặp nó, tất bị hung họa nặng, có thể dẫn đến cái chết thảm thương. Bộ này ở cung nào, gây tai ách cho cung đó. Nhưng nặng nhất, và có ý nghĩa xác định phải là ở những cung: Mệnh – Thân, Phu/Thê, Tử tức, Phụ mẫu, Huynh đệ. Và cả những cung trong tam hợp hay xung chiếu với Mệnh.

Khi câu hỏi, có cái gì chế hóa, hay hóa giải được nó không ?. Gặp nó thì Cải số như thế nào ?. Thì với sự hiểu biết về nó đơn sơ như vậy, thời không thể giải được !. Vì thế, câu hỏi đặt ra, thực thì nó tác hóa như thế nào ?. là một lẽ tự nhiên.

Phải nói rằng, Linh Xương Đà Vũ rất độc. Cái độc của nó không phải chỉ là ở cái chết của đương số. Mà cái độc của nó nằm ở chỗ bức tử đương số. Cái chết nào rồi thì cũng là chết. Có cái chết nặng tựa Thái sơn, có cái chết nhẹ tựa Lông Hồng. Có cái chết đau đớn quằn quại, trên phương diện tinh thần cũng như thể xác. Có cái chết tưng tửng. Ra đi vào cõi vĩnh hằng mà cứ như không có chuyện gì xảy ra cả. Thì cái chết do bộ Linh Xương Đà Vũ gây ra, quả thật thuộc về cái chết đớn đau. Nặng nhất về tinh thần. Sau nữa là sự giày vò về thể xác.

Người xem tử vi có kinh nghiệm, thấy rằng đằng nào cũng chết, nếu gặp Linh Xương Đà Vũ thì thà gặp Kiếp sát Hình Hổ hơn. Nhìn về mặt lý số, thấy cái anh Kiếp sát Hình Hổ sát khí nặng như thế, sao lại bảo thà gặp nó hơn là gặp Bộ Linh Xương Đà Vũ ?.

Thật ra, tuy sách vở đều đề cập bốn sao, đủ cả bốn sao: Linh tinh, Văn xương, Đà la, Vũ khúc. Nhưng thật ra, cái bộ này, nhân của nó là Linh Xương Đà. Mà hạt nhân trung tâm lại chỉ có Xương Đà mà thôi !. Thực ra Vũ khúc không phải là cái nhân họa của bộ này. Người ta có thể thấy, nếu không phải là Vũ khúc, có thể là một sao khác. Chẳng hạn như thế Vũ khúc bằng Kiếp sát, hoặc cả bộ như Cơ Lộc Mã cũng vẫn nguy hiểm như là với Vũ khúc. Nhưng cái cách bức tử con người ta sẽ khác nhau, cũng như nguyên nhân kích hoạt cái bộ Linh Xương Đà sẽ khác nhau mà thôi.

Điểm đặc biệt, nếu là Vũ khúc, thì bất kể Vũ có thể miếu vượng, vẫn hung hiểm như thường. Bởi vì đó là do khả năng chế giải của Vũ khúc với Linh Đà, đặc biệt là Đà la âm hiểm và tàn độc, khi Vũ khúc gặp nó, khác nào Chuột gặp Mèo đang đói. Thế nhưng Linh Xương Đà mà gặp phải Thiên phủ thì đương số chỉ lao đao thôi, chứ sức mấy mà bức tử nổi đương số. Tùy mỗi cách cục gặp Linh Xương Đà, mà gia giảm hung họa khác nhau.
Vũ khúc thì bị bức tử vì cùng quẫn. Âm Dương thì bị bức tử vì tuyệt vọng, bế tắc không tìm thấy ánh sáng cuối đường hầm. Cơ Lộc Mã thì bế tắc, tuyệt đường sinh nhai, chứ không phải là cứ đi ăn mày là thoát. …
Như đã nói, cái Nhân của nó là Linh Xương Đà. Nhưng cái Hạt nhân trung tâm, chính là Đà Xương. Có điều, nó liên quan đến sự thành cách. Không phải cứ thấy Xương Đà là tá hỏa tam tinh.
Việc thành cách, kiểu gì cũng có những dạng sau đây:
-Mệnh – Thân hay trong tam hợp có cả Xương lẫn Đà, và chỉ khi chúng thực là sao bản mệnh mới đúng là thành cách Xương Đà. Khi ấy, vào Vận, chỉ cần gặp Linh, các cách cục tham gia hội họp ra sao, đều là ở vị thế thay cho Vũ khúc mà thôi, đó gọi là biến cách. Gặp một Linh, là đủ quyết đoán rồi. Nếu ngay trong mệnh thân không có sao hay cách cục hóa giải Xương Đà, hay có sao ngăn chặn Đà la. Thì Họa tất sẽ xảy ra.
-Gặp cả ba sao này trong mệnh – thân và tam hợp, mà không có sao hay cách cục khác chia cắt chúng, thì cách này thành với điều kiện Đà Xương phải là sao bản mệnh, còn nếu chỉ có Linh là sao bản mệnh thì cũng không sợ, cho dù cách cục đã thành.

-Nếu chỉ có một sao Xương hay Đà, dù là sao bản mệnh, khi nhập vận gặp Đà hay Xương, thì cũng không thành cách. Nhưng trái lại, gặp Linh thì vẫn hung hiểm như thường, nhưng khi ấy không phải là hung hiểm của bộ Linh Xương Đà. Vì thế, dù có thấy cả bộ, chớ có đoán rằng đương số sẽ bị bức tử !. Đoán như thế, mu rùa có thể bị đập bể có ngày đó. Hi Hi …

-Xương và Đà gặp nhau kết thành hạt nhân trung tâm của cách, cũng phải xét đoán cho tinh. Đừng thấy khi Đà la độc thủ Dần – Thân là miếu địa mà đã vội cho hạt nhân này là cách cục tốt. Đừng tưởng Văn xương yếu liễu đào tơ, khuê các mà gặp được người anh Hùng – Đà la độc thủ cung VCD tại Dần – Thân là miếu địa, dẫu có gia thêm Bắc đẩu bội tinh (Ấn Tướng) để trở thành anh hùng QDND mà đã vội mừng. Các bậc phụ mẫu chớ có đem gả bán con gái mình vào những nơi như vậy. Đừng tưởng đó là trai anh hùng, gái thuyền quyên gặp nhau. Nhầm to đấy. Ây là đưa con gái mình vào chỗ chết. Sướng cũng chết, mà khổ cũng chết. Còn khi Đà la hãm địa, thì khỏi nói rồi.

-Sợ nhất là khi Xương gặp Kỵ. Nó mà thành cách Xương Đà, thì chả cần gặp Linh. Đơn sơ như vậy cũng đủ hồn về chín suối rồi, bởi khi ấy cả hai đứa đều “tranh nhau” làm sao bản mệnh.
Còn nhiều biến cách nữa, từ cái hạt nhân này. Mỗi biến cách đều có những luận giải khác nhau. Cần cẩn thận xét đoán, không thì nó tốt lại tưởng là xấu và ngược lại. Đơn cử như Linh Xương Đà hội đủ thành cách là cách cực xấu. Nhưng nếu có thấy Vũ được thay bằng Cự – cho dù là hãm địa – mà hóa Quyền thì trước cùng cực, nhưng sau đại phát, cách này là phản vi kỳ cách, người có cách này, làm quân nhân thì lên tướng, cầm quân đánh đông dẹp bắc, uy quyền khét tiếng. Đi buôn thì lỗ lên lỗ xuống, trốn chui trốn lủi, cuối cùng hanh thông, độc bá thiên hạ (đây chỉ là cách dùng hình ảnh thôi nhé, đừng tưởng thành vua thành chúa, rồi khi không được làm vua, làm chúa đến đòi đập mu rùa thì oan khiên lắm).
Xem thế, bộ Linh Xương Đà thật vi diệu, nhiêu khê. Phải tường tận thì mới mong cải được số do nó gây ra.
Không phải cứ thấy Linh Xương Đà, thầy bói kê đơn Cải số, là cứ cho một toa thuốc là sẽ giải được đâu. Có khi uống nhằm thuốc độc, nặng thêm, đẩy con người ta tới chỗ cùng cực hơn đó.
Ví như lá số Endopain. Lá số này, dẫu có thấy Đà la nhị hợp cũng không thành cách Xương Đà được. Vì vậy, lá số này không bị hại về Linh Xương Đà cố định. Nhưng ở vận 44-53 tất sẽ bị hại, lý do chính là bộ Linh Xương Đà Sát lưu động bị Liêm Phủ ở Mệnh rung dữ dội kích hoạt mà sụp đổ.
Số này, đại vận này giàu có, mặc dù từ nay đến lức 44 có một lần bị rung chuyển, nếu nói về số lượng nhà cụ thể, thời tử vi, như Tôi thì bó tay, đơn giản là vì, một triệu đô, người ta có thể mua vài ba căn nhà, nhưng cũng có khi lại chỉ có một căn mà thôi. Cũng có thể dùng Mai hoa dịch hay các môn khác mà đoán ra số lượng nhà cửa đã có. Nếu theo tử vi, chúng ta có thể xem xét ở dạng, tổng số tài sản, ước lượng là bao nhiêu. Thời, cái lá số này, vào thời điểm này thì tiền mặt không có bao nhiêu, đủ dùng xài (tiền mặt có bao nhiêu đều nhăm nhe đầu tư buôn bán). Nhưng tài sản nằm trong bds cũng đã có trên 10 triệu Mỹ kim rồi.
Sơ lược về cách Linh Xương Đà Vũ là như vậy !.
Nên nhớ, không phải là hỏi cách giải bộ này, mà phải là cải số, khi bị bộ này tác hóa. Tuy nhiên, biết được căn nguyên của nó, mới chỉ là bước đầu gọi là chẩn đoán bệnh. Còn giải, tức là kê toa thuốc ra sao, lại là chuyện khác, chuyện của cải số. Có những nguyên tắc của nó.
Thân ái.vi !.
Đây là một vấn đề, về thường lý, nó rất nan giải. Từ đó dễ dẫn đến những ngộ nhận sau:
-Sau khi tìm được phép Cải số, ví dụ như trường hợp của Jany. Việc tìm người có lá số như đã được chỉ dẫn là vô cùng khó. Ngay cả khi đã tìm được rồi, chắc gì người ấy đã có thể cùng với mình kết thành phu thê ?.
Về thường lý thì đúng là vậy. Nhưng về lý số thì không như vậy !.
Thật vậy. Lấy ví dụ, người có bệnh. Tìm thầy có khả năng chữa đúng được bệnh cho mình là khó. Nhiều khi, với bệnh nan y, lại vô cùng khó. Nhưng đó là công cuộc, là vận động nhân sinh. Nó không thuộc về cái gọi là lý luận của y học. Vì thế, đương nhiên, không chỉ bệnh nhân, người nhà của bệnh nhân, bạn bè, …cùng nỗ lực tìm kiếm. Đó chính là sự vận động nhân sinh, là sự nỗ lực của con người trong việc chữa bệnh. Còn khi gặp rồi, đương nhiên, khi người thầy thuốc thấy đúng con bệnh mà mình có khả năng chữa. Có khi nào người thầy thuốc đó từ chối không chữa, để mặc cho bệnh nhân chết không ?. Có thể có, nhưng ít lắm. Và cái phần trăm nhỏ nhoi đó, nó không thuộc về cái gọi là lý luận y học. Nó thuộc về y đức.

Cải số cũng gần giống như vậy. Tìm được người đúng như đã được chỉ dẫn. Khó thật. Nhưng đó là sự vận động của con người, sự cố gắng, bản lĩnh và nghị lực cùng với biết bao nhiêu nhân tố khác nữa !. Có thể người ta bảo rằng, gặp được đó cũng là Phúc. Vâng !, đúng là Phúc. Nhưng trên phương diện mệnh lý tử vi, thì phúc đó không phải là phúc theo cái lý của tử vi !. Đó là cái Phúc tổng quát hơn nhiều. Nó thuộc về lý luận nào, chẳng ai nói tới cho cụ thể được. Có người thì bảo đó là do Phúc thực tại. Ừ thì là Phúc thực tại. Khi mà ta không sờ được nó, không thấy được nó bằng xương bằng thịt. lại chẳng có một cái lý luận cơ bản nào hướng dẫn. Thì nói thế nào mà chẳng được. Thế nên, nếu nói Mệnh, mà chẳng nói là mệnh lý tử vi, thì nói thế nào mà cũng được. Nhưng ở đây, rõ ràng, bệnh được chỉ ra trên mệnh, chính là theo cái lý của tử vi. Thì muốn chữa cái bệnh đó, thời dùng chính lý tử vi mà chữa. Chứ nếu chỉ nói chung chung như : Bảo con bệnh rằng: cứ tu đi, làm việc thiện, hãy thanh tâm, hãy ăn chay, mà quên đi cái cần có là phải dùng y học để chữa bệnh, thì đó đâu phải là chữa bệnh. Mệnh cũng thế. Phải nói bằng chính cái lý của tử vi thời để chữa cho cái mệnh lý tử vi.

Tất nhiên, trong nhiều trường hợp, mệnh vẫn có thể chữa, hay cải được bằng những phép chữa mệnh tổng quát hơn trên nền tảng mệnh lý tổng quát nhất. Nhưng rõ ràng, người ta, nếu theo phương pháp đó, từ xưa đến nay, vẫn đã và đang, có lẽ cũng là sẽ vẫn làm thì không thể có một môn học xác định. Cũng như kiểu chữa bệnh bằng tập thể dục vậy. Tất nhiên sẽ khỏe mạnh, nhưng y học sẽ không thể phát triển nếu cứ lấy đó làm phương pháp bao trùm cho hết thảy.

Khi đã tìm ra rồi. Thì khỏi lo. Một lá số đã ứng như thế, khi gặp nhau, họ sẽ thấy sự cần thiết phải có nhau. Về mặt lý số, đó gọi là ứng số. Cho dù trên lá số của Jany, người chồng đúng số là người chẳng ra gì !.
xem ra, có vẻ thấy mâu thuẫn ?. Nhưng thực không phải vậy. Bởi đây là sự vận dụng những nguyên lý tổng quát nhất, có tính chất nền tảng của tử vi vào thực tiễn đời sống. Có thể hình dung như thế này:

Một chiếc xe ô tô. bạn đang lái nó, nhưng đến giữa đường bị hỏng, chẳng hạn như két nước làm mát bị vỡ. Khi đó, đương nhiên chiếc xe đó bị hỏng, không thể tiếp tục được hành trình. Nếu cố gắng thực hiện hành trình, thời máy sẽ cháy. Hệ lụy của nó là vô lường. Nhưng nếu bạn là người có kiến thức về động cơ, hay xe. Bạn sẽ có cách khắc phục nó để đi tới nơi có thể sửa chữa. Hoặc như bạn có cái quạt điện, nhưng nó lại bị nóng khi chạy, chạy lâu sẽ cháy. Bạn tìm cách làm mát nó, thì bạn sẽ dùng được nó.

Tôi lấy ví dụ đó, để cho thấy rằng, con người ta, đối với hệ động lực hoạt động theo các nguyên lý vật lý, thì khi nó bị sự cố, muốn khắc phục sự cố, người ta cũng phải vận dụng những định luật khác khả dĩ khắc phục được sự cố đó. Các định luật đó cũng vẫn sẽ là những định luật vật lý. Thì ở cải số cũng vậy. Trường hợp trên lá số gặp người chồng chẳng ra gì, thì bằng những nguyên lý vận hành mà tử vi tiềm tàng, chúng ta khai thác nó, vận dụng nó đúng đắn thì những điểm yếu trên lá số, như lá số Jany về người chồng, rồi cả việc sinh đẻ, là có khả năng khắc phục.

Nếu Bạn là cái người có biết về trường hợp giờ Kim sà, mà Tôi đã đưa ra tới ba lá số: Một lá số của người thầy, hai là số của người con nuôi, và cuối cùng là số của người con dâu. Tổ hợp cả ba lá số đó chính là đã có sự sắp xếp về lý số để cho cái mục tiêu Cải số, khắc phục cái tính lý nguy hiểm của giờ Kim sà có thể được thực hiện.

Bạn nói đúng. Việc tìm những lá số đó khả dĩ đối với thời đại ngày xưa. Nhưng ở thời đại ngày nay, người ta vẫn nỗ lực được, và cao nhất là bằng tâm và đức. Cùng với sự kiên tâm, tất sẽ có khả năng thành công. Với sự lần lượt, đầu tiên phải tìm cho được người thầy. sau đến đứa con nuôi. Cứ kiên tâm làm, cánh cửa vào kho tàng dần sẽ mở toang !.


Tôi không còn bao nhiêu bài nữa, cũng như đã hứa không tranh luận. Nhưng viết như apollo như trên, thật là chẳng hiểu gì cả. Không chỉ có thể chứng minh ràng mạch cái bộ Linh Xương Đà Vũ, mà cách này còn có thể nhìn từ nhiều khía cạnh để nhìn rõ bản chất.
Vì thế, apollo có hiểu hay không, không còn là vấn đề của Tôi, nhưng trong chủ đề này của Tôi, Là người đề cập đến cách cục này, nên vì trách nhiệm với bạn đọc, ở mức độ cho phép, Tôi viết thêm ý nữa, nếu bạn đọc có hiểu, thì tốt, nếu không hiểu thời đành chịu.
Trước hết cần thấy rõ bản chất hung họa của bộ Linh Xương Đà Vũ. Do bức đương số đến chỗ tự vẫn. Tiến trình của hung họa cũng do đó mà bộc lộ rõ ràng. Từ Hung đến Sát. Ta thấy rõ, Đà chủ hung, Linh chủ sát. Tuy rằng cả hai đều âm độc. Từ đó mà suy, thấy rõ Đà đến trước, Linh đến sau. Ép đương số cho đến chết. Quá trình là rõ ràng, chẳng có cái chết nào chết trước, phiền muộn, lo lắng sau cả !!! Xem Bộ Linh Xương Đà Vũ, thấy ngay Đà là hung, Linh thì Sát, Vũ là kết cục cũng là nội dung của họa hại, bởi thế, nếu không phải là Vũ, mà là Cơ Lộc Mã thì tuyệt đường sinh nhai mà chết. Còn nhiều biến cách nữa.
Biến cách Linh Đà Xương Vũ rất phức tạp và tinh tế. Trong đó, thấy rõ chỉ có ba sao đóng vai biến hóa là Xương Đà Vũ. Mỗi biến hóa là một biến cách. Chỉ có Linh cố định, ngồi ỳ một chỗ. Nhưng như thế không có nghĩa đó là nhân. Cái nhân của cách cục ở đây chỉ rõ là cái nhân gây họa. Chứ không phải là một cái nhân tĩnh tại.
Có hiểu được lẽ biến hóa đó, mới có thể hy vọng vận dụng được biến hóa của Linh Xương Đà Vũ.
Đừng nhìn thấy, đương số nào bị dính Linh Xương Đà Vũ là có kết cục của cái chết, rồi nói rằng Linh chủ Sát, gây nên cái chết mà cho rằng đó là hạt nhân trung tâm. Nắm bộ này theo cách đó, thì làm sao hiểu được biến hóa và vận dụng biến cách của Kiếm chiêu, qua một chiêu này.
Bao nhiêu trường hợp ví dụ mà mọi người đã hỏi, đủ thấy biến hóa của Bộ này như thế nào. Nếu lấy sự cố định của Linh mà luận làm trung tâm, thì làm sao hiểu được căn nguyên, cội rễ của hung họa.
Viết đến thế này là quá nhiều. Tôi sẽ không trình bày thêm.

Saturday, August 4, 2012

Tản mạn về cung Phu

Trên lá số Tử vi Đông phương, cung Thê trên lá số Nam chỉ về đường Hôn phối; cung Phu trên lá số Nữ chỉ về đường phu quân. Chúng ta có thể xem xét qua cung Phu Thê để biết được tình trạng của cả hai về đường Phối ngẫu. Tính chất về người Hôn phối có nhiều sự kiện khác nhau mà khoa Tử vi Đông phương cho thấy tương đối khá chính xác: trường hợp một người Nam hay Nữ trong đời có mấy lần thành hôn, trường hợp chồng sợ vợ, trường hợp khắc kỵ nhau, trường hợp hòa thuận.



Nguyên tắc cơ bản đầu tiên
Nguyên tắc đầu tiên nên ghi về cung Phối Ngẫu, là một sự khác biệt trong cách giải đoán tùy theo là cung Phu hay là cung Thê. Như lá số Nam có cung Thê thì giải đoán ở cung này là về phần người vợ. Còn lá số Nữ có cung Phu thì một số giải đoán ở cung này không ứng về phần người chồng, mà ứng về phần người vợ, tức là người có lá số.
Thí dụ: Một người Nam có Thiên Tướng ở cung Thê thì đó có nghĩa là bà vợ rất tháo vác, đảm đang, tinh thần cứng cỏi và ông chồng phải nể nang, kính trọng! Nhưng một bà có Thiên Tướng ở cung Phu, thì lại không có nghĩa là bà ấy sợ chồng, mà lại vẫn có nghĩa là ông chồng phải kiêng nể vợ. Nguyên do là vì theo cái đạo “xuất giá tòng phu” của Đông phương xưa là vậy.
Cũng có trường hợp là sự truyền tinh ở 2 lá số Tử vi của Nam Nữ vợ chồng. Như cung Thê của Nam số có Tử vi thì cung mạng của Nữ cũng có Tử vi.
Trường hợp vợ khắc chồng
Người vợ khắc chồng là người có mấy đời chồng hay ly dị chồng, hoặc bị chồng bỏ, hoặc chồng chết yểu góa bụa. Nhưng đừng tưởng mạng người Nữ khắc chính tinh ở cung Phu, là khắc chồng (vì mạng chồng lớn, vợ không thể khắc dễ dàng). Điều đó chỉ có nghĩa là Hôn phối bị trắc trở.
Cái chính là số chồng phải yểu thì mới bị góa chồng; còn số chồng vững thì không sao. Ngoài ra, xem cung Phu của người Nữ, việc quan trọng là phải nhìn cung Mạng xem có Không, Kiếp hay Phi liêm hay không. Người Nữ mà có Không, Kiếp ở mạng, nếu lại không có sao giải như Hóa khoa, Thiên quan, Lộc tồn là số người long đong về đường chồng con; có thể có mấy đời chồng. Còn như không có Không, Kiếp thì chẳng sao.
Tuy nhiên vẫn có nhiều trường hợp do “đức năng thắng số” khi người ta biết cải số hữu hiệu; có nghĩa là biết tu nhân tích đức và ăn ở tốt với chồng con vẫn giữ được hạnh phúc trọn đời. Cho
nên ca dao về lý số có câu:
Những người cứ số là ngu,
Ta thời lấy Đức mà tu với Trời.
Những trường hợp sợ vợ
Khi nào thì một người nam có lá số Tử vi sợ vợ? Kinh nghiệm giải đoán qua nhiều lá số giúp chúng tôi rút ra những quy tắc sau đây:
1. Mỗi cung số ở vào một bộ tam hợp; có một hành gọi là hành của tam hợp. Có 4 bộ tam hợp là:
- Dần, Ngọ, Tuất: Hành Hỏa
- Tỵ, Dậu, Sửu: Hành Kim
- Thân, Tý, Thìn: Hành Thủy
- Hợi, Mão, Mùi: Hành Mộc
Thí dụ: Một người Nam tuổi Nhâm Thìn số Tử vi có Mạng ở cung Hợi, Thê ở cung Dậu.
Tam hợp Mạng (Hợi, Mão, Mùi) thuộc Mộc.
Tam hợp Thê (Tỵ, Dậu, Sửu) thuộc Kim.
Ta có Kim khắc Mộc, tức là Tam hợp Thê khắc Tam hợp Mạng: người Nam tuổi Nhâm Thìn này là người sợ vợ. Thực tế nhìn bên ngoài chúng ta sẽ nhận thấy người Nam này rất hiền lành, tốt.
Ngược lại ở lá số Nữ, tam hợp Phu khắc tam hợp Mạng, lại không có nghĩa là vợ sợ chồng, mà vẫn có nghĩa là người Nữ đó cầm quyền trong gia đình, ông chồng phải kính nể vợ.
2. Ở lá số Nam có cách Thân cư Thê; có nghĩa là vận mạng mình bị ràng buộc vào người vợ hay nói cách khác là sự nghiệp của mình trong đời phần lớn do người vợ góp sức mới nên. Lẽ đương nhiên phải gặp được người vợ hợp tuổi và đảm đang thì mới được hưởng giàu sang mãn nguyện trọn đời.
Số Nữ Thân cư Phu nên được cung Phu tốt thật là sung sướng hạnh phúc một đời:
Chàng nên danh giá, thiếp còn trẻ trung.
Cho nên giải đoán cung Phu và cung Thê trong lá số Tử vi phải khác nhau.
Trường hợp khắc kỵ, chồng mấy đời vợ
Hồi còn sống ở Saigon, VN, chúng tôi có may mắn được đến học Tử vi với cố Lý số gia Thiên Lương (xin đừng lầm với Pháp sư Thiên Lương, cư sĩ Thiên Lương hoặc Suma Thiên Lương… đang quảng cáo trên các tờ báo thương mại ở hải ngoại này). Một hôm có người cầm lá số Tử vi đến hỏi cụ Thiên Lương về cung Thê. Cụ liếc qua lá số trên tay rồi nói ngay:
- Ông bị đến mấy đời vợ rồi phải không?
Ông này nhận đúng và thưa:
- Tôi có cả một người vợ chết nhưng tại sao lại như vậy được? Cung thê của tôi có chính tinh
Thái Âm vừa ở chỗ Miếu vừa ở cung Dậu là cung Âm đắc cách. Như thế là quá tốt. Sách Tử vi nào cũng nói có Thái Âm tại Dậu ở cung Thê là rất tốt. Mà sao tôi lại 3 đời vợ rồi!
Cụ Thiên Lương thong thả trả lời rằng:
- Thái Âm ở Dậu tại cung Thê thì tốt thật. Nhưng mạng ông là mạng Thổ, Thái Âm là Thủy. Thổ khắc Thủy, cho nên ông khắc vợ phải chịu cảnh mấy đời vợ cũng đúng.
Ông kia lại đưa ra lá số của người anh và thưa tiếp:
- Thưa cụ, còn ông anh tôi, cung Thê có Tử vi, lại ngộ Triệt là hỏng. Sách Tử vi dạy rằng cung Thê ngộ Tuần, Triệt thì bị Hình khắc chia ly mà sao anh tôi chỉ có một vợ, sống hạnh phúc với nhau đã 40 năm nay?
Cụ Thiên Lương lại ôn tồn giảng tiếp:
- Tuy có Triệt, nhưng Tử vi thuộc Thổ. Thổ sinh cho mạng Kim nên vợ chồng toàn hảo. Chỉ chậm lấy vợ, là do ảnh hưởng của Triệt.
Do đó, chúng ta rút ra được nguyên tắc sau đây:
1. Cung Thê có Tuần, Triệt: lấy vợ trễ. Hoặc “viễn phối tha hương” tức lấy vợ ở xa nơi sinh, xa quê hương.
2. Hành mạng khắc hành chính tinh ở cung Thê, người đó khắc vợ. Nếu không có sao giải hóa thì phải có mấy đời vợ.
3. Mạng và chính tinh ở Thê đồng hành hay sinh cho nhau; hay chính tinh ở Thê khắc mạng: chung sống với nhau lâu dài. Không ở lá số Nữ, thân cư Phu là thuận chiều nhất; cuộc đời của mình ràng buộc vào chồng, được nhờ chồng và vợ có nể chồng vì được chồng cưng cũng hợp lý thôi.
4. Lá số Nam, cung Thê có Hóa quyền có nghĩa là người vợ có quyền trong gia đình. Và theo quan niệm Đông phương, người vợ là nội tướng của gia đình.
Nếu có 2 trong 4 yếu tố trên thì sự nể vợ càng rõ ràng hơn. Có khi vợ giúp chồng nhiều nên vợ cũng dễ lên mặt; có khi vì chồng quá bê bối nên phải sợ vợ; có khi vì chồng đàng hoàng không may gặp phải người vợ lăng loàn nên vì danh dự của mình mà chồng phải nể vì không dám làm to chuyện xấu mình; có khi vì chồng tánh quá lành trong khi vợ tánh quá dữ dằn, ăn hiếp chồng được mới yên.
Trường hợp vợ hay chồng hòa hợp
Ông bà ta trước kia khi lấy vợ gả chồng cho con cái thường đi coi để so đôi tuổi xem có hợp hay không? Hợp thì mới tiến tới Hôn nhân. Tuy cũng có nhiều trường hợp chẳng may gặp tuổi khắc kỵ nhưng hai bên vì nghĩa, vì tình đã kết thân với nhau thì việc cưới xin vẫn diễn ra một cách bình thường. Và ông bà ta tìm đến Thầy cao tay ấn để chọn ngày kén giờ, để yểm trấn cho cuộc lương duyên của đôi trai gái được ăn đời ở kiếp với nhau đến trọn đời.
Chúng ta trọng nghĩa khinh tài
Coi đời là một hội bài đỏ đen.
Nhưng trong việc so đôi tuổi cũng rất phức tạp vì cổ thư để lại chính thư lẫn với man thư. Nếu không gặp được Thầy có chân truyền thực học làm sao giải quyết được sự việc đi đến một cuộc Hôn nhân tốt đẹp.
Nhân đây cũng xin tóm tắt các yếu tố quan trọng như sau:
1. Hành mạng của Nam và Nữ sinh cho nhau hoặc khắc nhau.
Sinh cho nhau thì tốt, còn nếu khắc nhau thì mạng chồng khắc mạng vợ tốt hơn vì thuận lý sinh khắc.
Tốt nhất: Mạng vợ sinh cho mạng chồng. Thí dụ vợ mạng Thổ sinh cho chồng mạng Kim. Vợ giúp đỡ chồng nên sự nghiệp.
Tốt nhì: Mạng chồng sinh cho mạng vợ. Thí dụ, mạng chồng Hỏa sinh cho mạng vợ Thổ. Chồng phục vụ vợ và cả hai được sống hạnh phục.
Tốt ba: Mạng chồng khắc mạng vợ. Thí dụ, chồng mạng Mộc khắc vợ mạng Thổ. Sự khắc này thuận lý thì vợ chồng vẫn thuận thảo, ăn nên làm ra. Tuy khắc mà không sao hết.
Xấu: Mạng vợ khắc mạng chồng.
2. Điều quan trọng vẫn là so sánh 2 lá số Tử vi, thấy có sự tương hợp trong toàn bộ kể cả các đại vận. Thí dụ:
- Số Nam sống lâu mà số Nữ lại góa chồng thì không hợp. Số Nam yểu mà số Nữ sớm góa bụa thì hợp.
- Số Nam và Nữ, số con qua cung tử tức gần giống nhau là hợp.
- Giàu hay nghèo gần như nhau là hợp.
- Đại vận 10 năm trên lá số thấy sự tương đồng là điều đáng tin cậy nhất.
Làm thế nào để cải được bệnh “khắc khẩu” giữa vợ chồng?
Chứng “khắc khẩu” tuy không có vi trùng độc hại, nhưng hậu quả của nó lại rất nguy hại khôn lường. Thông thường một đôi vợ chồng đã đi đến sự khắc khẩu tất sẽ dẫn đến hậu quả khôn lường sau đó. Cũng do hậu quả tai hại của chứng “khắc khẩu” mà người xưa đổ cho số mệnh là tiêu cực không đúng.
Ngày nay, xét qua góc độ “bệnh lý học” thì chứng khắc khẩu là một bệnh chứng tâm lý, bệnh căn của nó phát xuất từ việc hai vợ chồng trái tính, trái nết bất phục lẫn nhau.
Theo nhà tâm lý học người Mỹ là Jean Mason, nếu chúng ta muốn ngừa chữa chứng khắc khẩu cần phải chú ý những điều sau đây:
1. Phải tìm hiểu kỹ tâm tính của nhau trước khi kết hôn.
2. Chỉ tiến đến kết hôn khi đã thật hiểu về nhau và thấy thật phù hợp về tính ý.
3. Để tránh vợ thất vọng và coi thường, người chồng phải có một nghề nghiệp ổn định, một phẩm cách tốt đẹp, một tấm lòng bao dung.
4. Để tranh bị chồng coi rẻ, người vợ phải không vị kỷ, tháo vát việc gia đình, có phẩm chất tốt, có uy tín với mọi người trong gia đình chồng và nhất là phải có một nghề trong tay để tự lập.
5. Cả hai vợ chồng phải sống thật bình đẳng, thành thật với nhau và thương yêu tôn trọng lẫn nhau.
6. Hai vợ chồng phải sống thật thủy chung với nhau, tránh những quan hệ tình ái bất chính.
7. Hai vợ chồng phải biết hy sinh cá tính để hòa đồng vào nhau, phải biết nhường nhịn và tha thứ cho nhau.
8. Hai vợ chồng phải tránh xúc phạm đến tự ái của nhau và phải trao đổi một cách tế nhị những vấn đề xảy ra trong cuộc sống dù to, dù nhỏ, không được ai lấn lướt ai, nên tìm một quyết định chung, một giải pháp chung.
9. Hai vợ chồng phải đặt hạnh phúc gia đình, danh dự gia đình, tình thương con cái, tương lai con cái lên trên tất cả mọi bất đồng nếu có để giữ hòa khí.
10. Hai vợ chồng phải thật sáng suốt trong cuộc sống lứa đôi của mình để tránh bị người ngoài mê hoặc, xúi bẩy gây ra bất hòa đổ vỡ.
Nói tóm lại, trước sự đa dạng của tâm lý, tính tình con người; những điều ngừa chữa chứng khắc khẩu trên chỉ là những tiêu biểu tương đối. Tuy nhiên, nếu biết ứng dụng vào cuộc sống một cách linh động có thể coi đó như những điều kiện tham khảo để tự chữa bệnh khắc khẩu có hiệu quả cao. Ông bà chúng ta cũng có rất nhiều lời khuyên về cuộc sống vợ chồng mà câu ca dao dưới đây đáng được ghi khắc vào tâm khảm mọi người:
Chồng giận thì vợ làm lành.
Đến khi vợ giận, xin em anh chừa.
Chính bản thân người viết bài này, đã có kinh nghiệm trải qua cuộc sống vợ chồng tròn 50 năm.
Tuy có đôi lúc sóng gió trong đời sống sao tránh được? Nhưng sau mỗi cơn giông tố cả hai chúng tôi đều biết tự chế nên cuộc sống vẫn êm đềm tốt đẹp đến ngày hôm nay để hãnh diện tổ chức ngày vui kỷ niệm 50 năm sống chung Hạnh phúc.

Xuất Không Điền Thật

Xuất Không-Điền Thật, là lúc Đại Vận, Tiểu Vận, hay Lưu Niên Thái Tuế, nguyệt Hạn hay Nguyệt Lệnh, Nhật Hạn hay Nhật Kiến (Nhật Thần), Thời Hạn hay Thời Hoàng Đạo xung cung có Tuần Triệt hoặc vào cung có Tuần Triệt, thì tất cả những gì ở trong cung ấy xấu hoặc tốt sẽ thành sự thật, hiển hiện.
Lại như ở Dần Mão có Tuần Triệt, khi Vận, Hạn, Lưu Thái Tuế, Nguyệt, Nhật, Thời vào cung Dần, thì cung Mão cũng được mở ra, ngược lại vào cung Mão thì Dần cũng mở ra, tùy theo đương số Vận Hạn chuyển thuận hay nghịch.


Riêng hợp mất Không thì như cung Hợi có Tuần Triệt, Vận Hạn không đến hợi (vì nếu đến là Xuất Không rồi), mà đến Dần thì Dần hợp mất cái Không ở Hợi, cho nên những gì xấu tốt ở Hợi sẽ phơi bày ra, và hơn nữa là cung nhị hợp cho nên những sao đó có ảnh hưởng trực tiếp đến cung Dần, ít ra là 70%.

Phân độ nặng nhẹ của các sao liên quan đến CHÍNH CUNG từ các cung:
- Tại cung (CHÍNH CUNG) các sao ảnh hưởng 100%
- Cung nhị hợp và giáp, như Tí-Sửu, Ngọ Mùi ảnh hưởng 99% giống như đóng tại cung.
- Cung xung ảnh hưởng 95%
- Nhị hợp ảnh hưởng 70-80%, nếu nhị hợp thành Cách thì xem như tại cung, ảnh hưởng khoảng 90-95%
- Tam hợp ảnh hưởng sao cặp như Xương Khúc, Quang Quý, Thai Tọa… 70%, nếu sao đơn chỉ có ảnh hưởng 50%.

Con số % chỉ là tiêu biểu không phải tuyệt đối để chúng ta dễ bề cân phân nặng nhẹ mà thôi.
Câu “Tam phương xung sát nhất Triệt nhi khả bằng” ý nói tam phương tứ chính mà có nhiều hung sát tinh nếu có Triệt đóng thì sẽ không vấn đề gì (lý tương tự với sao cát).

Nam sinh năm Kỷ Hợi tháng 6 ngày 1 giờ Mão. Mệnh Tử Tướng có Tuần, Quan có Triệt.

Ta thấy Lưu Mệnh chuyển đến Tí, Lưu Tài đến Quan ở Thân có Triệt và Địa Không cho nên tạm thời Lưu Mệnh tốt, tiếng tăm lừng lẫy. Nhưng năm Tí và Dần phối hợp với Thiên Không, Địa Không, Địa Kiếp xung phá cung Tài thì biết là tan nát đời hoa. Chỉ cần hai năm này thôi đương số vì lo sợ mà già trước hơn 10 tuổi.
Người này tôi đã xem qua nhiều lần trước đây, nhưng hai năm quan trọng nhất mà đương sự canh cánh lo sợ phá sản và nhiều lần hỏi tôi là năm Mậu Tí (2008) và năm Dần (2010). Tài sản của đương sự là 5-3 chục triệu USD. Ở Mỹ thì ai cũng biết rồi, càng giàu càng nợ. Dĩ nhiên lá số này thuộc loại đặc biệt, nhưng ở đây tôi chỉ muốn nói rõ và đã lưu ý với đương số những năm cần chú ý là Tí và Dần trong lúc Hạn chưa đến. Có lẽ chính đương sự cũng không tin là nó ghê gớm như thế. Đương sự luôn có mặt trên TVLS nên tôi không tiện nói nhiều, chỉ xin vắn tắt nói rõ hai năm Tí Dần vừa qua để Aladin chiêm nghiệm.

Từ lá số này chúng ta biết được câu “tam phương xung chiếu hạnh nhất triệt nhi khả bằng” có thể giải thích như sau.
1. Nó không phải viết ra trong thời của Trần Đoàn Lão Tổ mà có thể là do người sau viết ra và người viết ra có thể là chưa hiểu hết nguyên lý của Tuần Triệt.
2. Nếu là người hiểu rõ nguyên lý của Tuần Triệt thì có lẽ vì do viết quá vắn tắt nên người sau hiểu không hết, hoặc họ chỉ muốn nói một cung chung chung dù tam phương xung phá mà gặp được triệt thì cũng chưa sao, vì cung đó bị Triệt Không ngăn cản, nên tạm thời vô hại.
Cái thuyết Xuất Không, Xung Không, Điền Thật, Hợp Không sau khi nghiền ngẫm từ Kỳ Môn, Lục Nhâm, Tử Bịnh, Bói Dịch và chiêm nghiệm nhiều lá số Tử Vi đúc kết lại mà viết ra trên net lần đầu tiên vào năm 2002 đến nay đã gần 10 năm. Mới đây viết lại vì sau mười mấy năm chiêm nghiệm và thấy không còn chỗ sai
Nếu quý vị biết trân quý nó mà chịu khó nghiền ngẫm thì sẽ mở toan cánh cửa huyền vi của Tuần Triệt, ngược lại thì nó chỉ là một mớ chữ vô nghĩa mà thôi, chẳng có lợi ích gì cho ai cả.

Cơ sở cách xem của phái Tử Vân


I Những điểm học tập quan trọng
Lịch sử hình thành và phát triển của Tử Vi không rõ ràng, mà cũng không cần chú ý quá. Hoàn toàn không biết cũng chẳng ảnh hưởng gì đến nhận thức Tử Vi. Nếu hứng thú thì có thể tìm thấy tư liệu phát triển 40 năm gần đây, nhưng đó cũng chỉ là chuyện trà dư tửu hậu. Phát triển trọng yếu bắt đầu khoảng mười năm trước, khi Tuệ Tâm trai chủ giới thiệu Tử Vi trên Trung Quốc thời báo cho đến ngày nay. Bộ phận phát triển này hết sức có giá trị. Để giới thiệu và nghiên khảo, người viết có thời gian sẽ ở phần sau giới thiệu, tên bài là “Sự phát triển của khoa Tử Vi trong mười năm qua: Từ duy tâm luận đến tâm vật hợp nhất”. (dịch giả chú = dgc: Bài này đã dịch đăng trên tuvilyso. Đoạn này giúp cho ta biết tác giả bài này không phải là ông Tử Vân. Vậy thì hẳn phải là một người muốn xiển dương cách luận Tử Vi của ông Tử Vân, hy vọng là nắm vững cách luận này).
Trong việc tập luyện Tử Vi, theo lý giải hôm nay của người viết (dgc: Tức người viết bài này, không phải ông Tử Vân, không phải dịch giả), thì các điểm quan trọng có thể phân thành vài loại: Một là tính chất tinh đẩu, hai là biến hóa của tứ Hóa, ba là biến hóa của các cung.
1.1 Tính chất tinh đẩu
Khi an lá số Tử Vi, trên lá số các danh từ như Tử Vi, Thiên Cơ, Thái Dương, Cự Môn, Thiên Phủ Hỏa Tinh, Văn Xương v.v… đều chỉ các sao. Nói chung, những sao này chỉ là “phù hiệu tượng trưng”, không hề đại biểu rằng các “sao” này có quan hệ với khoa thiên văn học, bởi vậy một số người nói Tử Vi dùng “sao ảo” (dgc: phóng dịch từ Hán Việt “hư tinh”) là cốt đại biểu ý ấy.
Tử Vi nghe nói có hơn trăm sao, kỳ thật thường dùng không quá khoảng 40 sao, còn lại xem cho đẹp mà không mấy khi dùng. Việc này sẽ đề cập thêm sau. Sao của Tử Vi có tính chất đa diện, ở mỗi cung khác nhau được diễn giải khác nhau, nhưng đặc tính cơ bản thì chẳng có gì thay đổi, chẳng hạn: Thiên Cơ đại biểu linh hoạt, cơ động, hoạt bát, tư lự v.v…; ở cung mệnh biểu thị người thông minh, cơ trí, linh hoạt…; ở phu thê biểu thị người có cảm tình bất định, dễ đổi thay; ở tài bạch là người linh hoạt, có nhiều cách làm ra tiền v.v…
Về tính chất sao đặc biệt chú ý “cách cục”. Cách cục là kết quả do một số sao cùng hội chiếu mà sinh ra, tác dụng có điểm tương tựa phản ứng hóa học, so với phản ứng “vật lý đơn thuần” -sao độc thủ- thì quan trọng hơn nhiều, chẳng hạn “Cự Kình Hỏa chung thân ích tử” đại biểu người hành sự tâm lý gấp vội, kịch liệt, không được việc, tự tìm phiền não, đến mức chẳng lùi được nữa. Có điểm cần đặc biệt chú ý: Các cách cục này phải được tứ Hóa dẫn động mới tính, bằng không thì không có tác dụng; Nhớ kỹ, nhớ kỹ!
Phương pháp nhớ đặc tính các sao thì như bát tiên quá hải, mỗi người hiển thị một phép thần thông (dgc: Ý muốn nói mỗi người phù hợp một cách học nhớ khác nhau), nhưng người viết có một số phép nhớ nhanh, biết đâu có thể giúp cả nhà một tay, sẽ trình bày sau.
1.2 Biến hóa của tứ Hóa
Tác dụng của tứ Hóa là đặc điểm của khoa Tử Vi, mười phần quan trọng, nhưng lại liên hệ cực kỳ mật thiết với đặc tính của các sao. Tứ hóa là bốn đặc tính hóa Lộc, hóa Quyền, hóa Khoa, hóa Kỵ. Nói giản dị: Hóa Lộc là thuận lợi, hưởng thụ, đạt được; hóa Quyền là kiên định, chấp trước, quyền lực; hóa Khoa là thanh danh, học vấn; hóa Kị là khốn khó, trở ngại, không dễ dàng.
Điểm quan trọng của tứ Hóa là ở chữ “hóa”. Hóa ý là “biến thành”, hoặc là tăng cường một loại tín hiệu nào đó. Cho nên lấy Cự Môn làm thí dụ thì: Cự hóa Lộc đại biểu vì miệng lưỡi mà có tiền tài, nên có thể là người diễn giảng, dạy học, cố vấn pháp luật v.v… Nếu hóa Quyền thì đại biểu lời nói có quyền uy, hễ nói là làm, nói được ngưòi nghe v.v… hóa Kị thì biểu thị lời nói phạm kẻ khác, vì lời nói mà xảy chuyện phong ba v.v… Chú ý một chút, đặc tính không hóa Khoa của Cự Môn. Người có mồm có miệng chẳng phải đến nơi nào cũng nổi danh sao?
Tứ Hóa cần phải nối kết vào cung vị mới xem được việc, cho nên hai yếu tố này khó mà tách rời nhau; nhớ kỹ, nhớ kỹ! Thậm chí chỉ dựa theo sao được hóa của tứ Hóa và cung vị đã có thể đoán một số chuyện quan trọng, sự kiện này sẽ được thuyết minh trong phần cung vị biến hóa.
Gần đây một số người đã bỏ Quyền Khoa, chỉ dụng Lộc Kị. Những người này do Liễu Vô cư sĩ đại biểu. Kỳ thật cách xem của ông không hoàn chỉnh. Ngoài hóa Lộc hóa Kị ra, hóa Quyền và hóa Khoa cũng có tác dụng nhân sinh trọng đại. Không tất yếu nhất định dựa vào việc này phê phán người ta.
Bảng tứ hóa như : Giáp Liêm Phá Vũ Dương, Ất Cơ Lương Vi Nguyệt v.v… thì nhất định phải nhớ. Cách an tứ hóa có một số quy tắc, như hiện tại đã được chỉnh lý (dgc: không rõ nghĩa). Phần này có thể tham khảo tư liệu, như : Tử Vi đẩu số đạo độc – Tinh diệu giải thuyết thiên, Trần Thế Hưng, Tiêm Đoan xuất bản xã, trang 170 đến 187.

1.3 Biến hóa của cung vị
Lá số Tử Vi cộng lại có 12 cách, nhưng có 13 cung, phân biệt là mệnh, thân, huynh đệ, tử nữ (dgc: tức tử tức), tài bạch, tật ách v.v… Trong đó thân có thể ở 6 cung vị là mệnh, phu thê, tài bạch, thiên di, sự nghiệp (dgc: tức quan lộc), phúc đức. Mỗi cung vị đại biểu một phương diện hoặc quan hệ. Tử Vi chia đời sống ra 12 phương diện để nghiên cứu; tỷ như cá tính, tình bạn, liên hệ anh chị em, ái tình; tình thân về phương diện luân lý, như phụ mẫu, tử nữ hoặc là cái nhìn về việc truy cầu tài phúc, quan hệ nhân tế, quan niệm công danh mạnh hoặc yếu, phẩm chất nơi cư trú, đòi hỏi sinh hoạt tinh thần v.v… là đời sống, nên nghiên cứu đời sống cũng khởi từ những điều ấy.
Vì cung vị đại biểu sự phát sinh của vụ việc, cho nên có lúc đại biểu dấu tích trùng trùng của tâm thái. Nếu kết hợp với tứ Hóa thì có nhiều vụ việc phát sinh; chẳng hạn: Một người cung phu thê hóa Kị, nhưng đại hạn phu thê hóa Lộc, sự kiện này thông thường biểu thị người ấy dễ sinh chuyện ngoại tình; có thể giải thích rằng quan niệm về cảm tình không đúng, lại có cơ hội hưởng thụ tình cảm. Nếu đã thành hôn thì dễ sinh chuyện ngoại tình; nếu chưa thành hôn dễ bỏ nhau hoặc phát sinh hiện tượng lo sợ (dgc: dịch tạm thôi vì không rõ “đảm tâm đích hiện tượng” ở đoạn này ám chỉ gì; hay muốn nói trong khi yêu mà lòng bất ổn?)
Ba yếu tố trên là trọng điểm của khoa Tử Vi, khi đoán mệnh thực tế, thiếu một trong ba là không được. Chỉ cần có quan niệm không đúng là đoán mệnh dễ sai lầm. Nhưng ngày nay ngàn vạn cần hiểu rằng chỉ bằng ba yếu tố kể trên vẫn không đủ luận đoán chính xác, bởi còn phải du nhập điều kiện, trạng thái nữa.
Du nhập điều kiện, trạng thái là khác biệt giữa quan niệm Tử Vi nay và xưa. Muốn hiểu rõ lá số phàm khi với người khác có quan hệ hoặc liên quan thì phải có tư liệu của người đó mới mong luận đoán một cách hợp lý. Thí dụ: Làm bạn với một người, nếu không có tư liệu của người đó thì chúng ta chẳng thể tiên đoán trạng huống giao vãng về sau (dgc: Thực ra chỉ có thể nói là nếu không du nhập dữ liệu thì lời đoán của trạng huống giao vãng về sau sẽ có xác xuất thấp hẳn đi). Lại thí dụ: Muốn biết cảm tình giữa ta và các anh chị em của ta thì phải du nhập tư liệu của anh chị em vào. Phép du nhập dữ liệu này gọi là “Thái Tuế nhập quái”, hết sức hữu hiệu và chính xác. Phép này được ông Tử Vân đề cập trong sách lần đầu tiên. Ông nói: Theo chi năm sinh của người ta mà đưa vào lá số, căn cứ tam hợp của cung vị, tính chất của tinh đẩu, tứ hóa mà đoán liên hệ giữa người ấy và chủ nhân lá số. Cách này giúp Tử Vi bước một bước dài ra ngoài, bởi vì trong đời sống thật có rất nhiều việc liên hệ đến người khác, sau khi du nhập dữ liệu của người ta vào thì có thể đoán những hành động hỗ tương giữa người với ta thêm chính xác. Cho nên hiểu phép Thái Tuế nhập quái là kỹ xảo giúp việc luân Tử Vi tiến thêm một bước. Nhớ kỹ, nhớ kỹ!
2 Thái Tuế nhập quái
Tử Vi có một số cung do tự kỷ (tự mình) quyết định, một số cung do tự nhiên quyết định. Tự nhiên quyết định thì như các cung huynh đệ, tử tức, tật ách, nô bộc, phụ mẫu; tự kỷ quyết định có các cung phu thê, thiên di, sự nghiệp, phúc đức. Còn khi mới sinh không thể nào quyết định nhưng sau thì có thể tự quyết định thì có cung điền trạch. Ngàn vạn phải hiểu: Những gì do đặc tính sao hiển thị trên lá số chỉ là quan niệm của chủ nhân lá số về sự việc đó, hoặc giả nói là “ý thức hình thái”, không thể dựa vào mà định cát hung. Nếu muốn đoán cát hung thì phải du nhập “điều kiện” mới được. Thí dụ: Muốn đoán liên hệ tình cảm giữa chủ lá số với anh chị em thì phải biết năm sinh của các anh chị em, du nhập chúng vào lá số.
Phụ chú: Việc ứng dụng “Thái Tuế nhập quái” chẳng đơn giản, nhưng nguyên tắc cơ bản thì có thể thưa cùng quý vị: Như chị của quý vị sinh năm 57 (dgc: Đây ám chỉ năm Trung Hoa Dân Quốc thứ 57, tức năm 1968) thì năm là Mậu Thân thì dùng can Mậu để định tứ Hóa: Mậu Tham Nguyệt Hữu Cơ. Lúc ấy xem Tham hóa Lộc có cư hoặc tam hợp cung mệnh của quý vị không, có thì chị của quý vị chỉ cho quý vị mà không đòi hoàn lại, hoặc nói là chị quý vị đối xử tốt với quý vị. Đương nhiên nếu Lộc của chị quý vị khiến mệnh của quý vị được song Lộc giáp thì hiệu quả cũng vậy (dgc: Nhưng theo ý người dịch thì Lộc nhập quái giúp tạo thành song Lộc giáp mệnh có nghĩa là liên hệ tốt đẹp có tính ẩn, ít được người ngoài biết hơn so với trường hợp cùng cung hoặc tam hợp mệnh).
Mặt khác, nếu hóa Kị của chị quý vị nhập cung mệnh của quý vị thì có nghĩa hai bên có khó liên hệ tốt, hoặc chị quý vị thiên sinh đã phòng ngờ quý vị. Còn về cá tính của chị quý vị thì lấy cung Thân làm chủ, tham khảo cung Thân và tam phương tứ chính để định cá tính, lúc ấy cần thêm tác dụng tứ hóa của Mậu Tham Nguyệt Hữu Cơ, hợp với tứ Hóa đã có sẵn trong lá số cùng tham khảo.

Ví dụ:Tình huống giữa quý vị và bà chị sinh năm 57 (dgc: tức 1968) thì luận như sau: Thứ nhất, nếu cung Thân ở tam phương cung mệnh của chủ lá số thì cá tính của bà chị và chủ lá số tương cận, tương đối dễ hiểu nhau – Đây bởi vì xuất hiện ở tam phương thì các tinh đẩu phần lớn tương tự – chú ý tính chất tinh đẩu đã đề cập trước đây. Thứ hai, xét tác dụng của tứ Hóa Mậu Tham Nguyệt Hữu Cơ trên cung anh chị em (dgc: tức cung huynh đệ), nếu hóa Lộc có tác dụng mạnh hoặc hội chiếu thì có nghĩa hai bên tình cảm không tệ. Hóa Quyền biểu thị giữa anh chị em có khả năng chi phối mạnh mẽ. Nếu hóa Kị dẫn động (dgc: Nghĩa là hóa Kị trong tam phương tứ chính hoặc tạo thành cảnh song Kị giáp) thì có nghĩa hai bên cảm tình không thuận hoặc có chuyện bất lợi khác.
Đó là khái niệm cơ bản của phép “Thái Tuế nhập quái”. Đương nhiên Thái Tuế nhập quái cũng có thể dùng để đoán đại hạn và lưu niên, nhưng có hạn chế, ngàn vạn nhớ kỹ, không thể toàn diện thổi phồng. Sự thật là huynh đệ xem như thế, cha mẹ cũng xem như thế, thêm can năm sinh của cha mẹ vào để quyết định (dgc: Không đề rõ quyết định gì, ý hẳn là quyết định liên hệ giữa cha mẹ và chủ nhân lá số), xem địa chi của cha mẹ để định cá tính của họ. Cảm tình nam nữ cũng đoán như vậy, thầy cô hoặc giảng viên cũng như vậy, bạn học bạn bè cũng như vậy. Cái phức tạp của Thái Tuế nhập quái là quan hệ hỗ động giữa hai cung khác nhau – Đó là chỗ tinh yếu của của phép Thái Tuế nhập quái, trước đây đã bàn một chút, sau này sẽ phân tích kỹ hơn.

3 Phép đoán Tử Vi

Dùng Tử Vi luận mệnh vận có hai trạng huống. Một là vĩ quan (dgc: Cái nhìn rộng lớn), khởi từ vận mạng trọn đời, rồi đến vận 10 năm (đại hạn), cuối cùng đến lưu niên (vận một năm). Một loại khác gọi là vi quan (dgc: Cái nhìn nhỏ hẹp), mục tiêu là đoán những gì xảy ra trong một ngày, một giờ. Nói chung, hai trạng huống này phương pháp giống nhau, chỉ là việc áp dụng tính chất tinh đẩu cần đổi chút ít.
Vì vĩ quan tương đối thật dụng, lại có nhiều khả năng giải quyết những câu hỏi trong tâm người ta, nên nói chung luận mệnh chủ là vĩ quan. Khi vĩ quan thành thục rồi thì tự nhiên có thể xử dụng vi quan luận mệnh.
Nếu làm theo vĩ quan thì cần suy tư rất nhiều vấn đề rồi mới có thể đoán sự việc diễn biến ra sao kết quả thế nào.
Hệ thống Tử Vi đến lưu niên tổng cộng có ba tầng kết cấu,
· Tầng một là bộ phận lá số nguyên thủy và tứ hóa nguyên thủy
· Tầng hai bộ phận lá số đại hạn và tứ Hóa ứng với can cung đại hạn;
· Tầng ba là bộ phận lá số lưu niên và lưu tứ Hóa năm xem số (như năm dân quốc 82 là năm Quý Dậu thì lấy tứ Hóa theo can Quý).
Ba tầng bộ phận này, cơ bản tầng một lá số nguyên thủy, nhưng thực tế là những gì hiện ra trong lá số lưu niên. Đại hạn thì đóng vai trò truyền thừa; tức lá số nguyên thủy là căn bản, là xương cốt, lá số đại hạn là cơ thịt, thần kinh, lá số lưu niên biểu diện da ngoài và ngũ quan. Nhưng đó chỉ là những sự việc hết sức chung chung thôi (dgc: nguyên văn “phổ biến hóa”, chỉ dịch ý thôi), đối với những sự việc đặc thù tất phải du nhập dữ liệu mới luận được là cát hoặc hung.


3.1 Bộ phận thứ nhất: Lá số nguyên thủy
Cầm lá số, đầu tiên cần xác nhận năm tháng ngày giờ sinh chính xác hay không (dgc: Điểm này được ông Tử Vân nhấn mạnh trong nhiều sách. Rất nhiều trường hợp đoán sai chỉ vì lá số đã sai từ đâu, nên việc thiết lập năm tháng ngày giờ sinh không chỉ là bước đầu mà là một trong những bước quan trọng nhất của diễn trình đoán mệnh), rồi nắm vững kết cấu của toàn thể lá số, nắm vững tính chất tinh đẩu, xem có tạo thành cách cục không, xem sự dẫn động của tứ Hóa vì có liên hệ đến việc cách cục được phát động hay không.
Xem lá số nguyên thủy bắt đầu với cung mệnh, vì mệnh là trung khu của các cung còn lại. Cung mệnh quyết định tính cách, đặc tính đối với “tâm thái” của các cung khác; đây là một điểm quan trọng, cần chú ý.
Tiếp đó xem cung thân, vì thân có tác dụng tăng cường hoặc điều chỉnh nên là một cung cần tu chính. Ở đây cần nói rõ tác dụng tăng cường là: thân cư cung nào thì điểm quan trọng cần chú ý của đời người là cung đó. Tỷ dụ: Người có thân trùng hợp phu thê (dgc: tức thân cư phu thê) thì mục tiêu truy cầu trong đời chủ yếu là sinh hoạt gia đình hạnh phúc mỹ mãn; lại tỉ dụ thân trùng hợp với thiên di (dgc: tức thân cư thiên di) tất mục tiêu cuộc đời là quan hệ nhân tế viên mãn hoặc là được người khác tôn trọng và bội phục, thành thử các phương diện khác nếu không như ý thì cũng chẳng quan tâm lắm. Tác dụng tu chính tức là: Tính cách cá nhân lần hồi với tuổi tác chuyển biến sang đặc tính các tinh đẩu của cung thân. Tỉ như mệnh vô chính diệu (không có chính tinh, giải thích sau) nhưng thân có chính tinh thì có thể, sớm thì lúc trên hai mươi tuổi, chính tinh ở cung thân dần dà phát sinh tác dụng.

Xem đặc tính sao trong lá số không chỉ xem cung mệnh có các sao nào, vì quy tắc của Tử Vi là phải nhập hết tam phương tứ chinh vào tham khảo mới đúng. Lý của tam phương tứ chính sẽ bàn sau. Tam phương ý nói ngoài cung gốc của mệnh ra, sao trong tài bạch thiên di và sự nghiệp đều ảnh hưởng tính cách con người.
Quy tắc này dẫn đến một đặc điểm của khoa Tử Vi: Mười bốn chính tinh đại thể được chia thành vài tổ hợp sao. Chẳng hạn: Tử Phủ Tướng một nhóm, Sát Phá Tham một nhóm, Cơ Nguyệt Đồng Lương là một nhóm, tối hậu Thái Dương và Cự Môn thành một nhóm. Trong đó Tử Phủ Tướng và Sát Phá Tham v.v… có thể hội chiếu nhau, Cơ Nguyệt Đồng Lương tất có thể hội chiếu cùng Nhật Cự. Ở đây hội chiếu ý chỉ: Khi một sao xuất hiện tất tam phương tứ chính cũng có một số sao, theo quy tắc Tử Vi mà nói, hội chiếu nghĩa là các sao này có khả năng sinh ra tác dụng. Lý kia là tứ chính, tức là tác dụng tam phương cộng với cung giáp. Ý nghĩa của giáp chỉ hai cung bên cạnh cung mệnh, tức tác dụng của cung anh chị em (dgc: cung huynh đệ) và cung phụ mẫu. Khi hai sao đôi xuất hiện ở hai cung huynh đệ và phụ mẫu thì sinh tác dụng; tỉ như: Văn Xương, Văn Khúc, một ở cung phụ mẫu, một ở cung huynh đệ thì có thể sinh tác dụng; tỉ dụ khác: Kiếp Không, Hỏa Linh, Phụ Bật, Lộc Tồn và Hóa Lộc giáp v.v… đều tính là “sao đôi”.
Tất cả chúng ta có thể nghĩ, Tử Vi dàn xếp như vậy có lý chăng, lý ở đâu? Cung mệnh sao lại cần xét thêm tác dụng của tài bạch, thiên di, sự nghiệp, có khi thêm tác dụng của phụ mẫu và huynh đệ. Nếu nghĩ kỹ về các loại quan hệ này thì có thể hiểu rõ thêm quan niệm xã hội của Tử Vi. Nếu suy nghĩ về sinh hoạt trong xã hội thực tế, nhất định có thể giúp bạn hiểu “đời người” rốt cuộc là gì.
Tỉ như: Theo Tử Vi cung phu thê xấu tốt do: phu thê, thiên di, sự nghiệp, phúc đức, có khi huynh đệ và tử tức cũng có tác dụng, sự kiện này làm sao lý giải? Đại khái có thể như sau: Thành bại của hôn nhân, ngoài quan niệm hôn nhân của bản thân ra (tức đặc tính các sao trong cung phu thê), còn được quyết định bởi những nhân tố khác, như địa vị xã hội của hai bên tức quan niệm “môn đăng hộ đối” (cung thiên di), như sự nghiệp thành công hay không cũng ảnh hưởng thành bại của sinh hoạt gia đình (cung sự nghiệp tốt hoặc xấu), lại như sự hòa hợp và nhu cầu tâm linh là cái phúc nông cạn hoặc sâu dày ảnh hưởng đến sự ổn định của tình cảm và hôn nhân; tối hậu vấn đề tình dục hoặc sinh dục đời sau cùng với ảnh hưởng của anh chị em và bè bạn, đều ảnh hưởng đến sự thành bại của cảm tình luyến ái. Các loại sự việc này đều liên hệ đến cảm tình và hôn nhân, cho nên dùng thuật ngữ hiện đại mà nói thì: Tình cảm hoặc hôn nhân, Tử Vi cho rằng địa vị trong xã hội, địa vị trong sự nghiệp, cảm nhận tâm linh (mong muốn hưởng phúc), quan điểm giáo dục (sinh hoạt tình dục), nhu cầu giống tập thể v.v… đều có ảnh hưởng. Nếu thảo luận về gia đình trong xã hội hiện đại thì: Luân lý, tình dục, kinh tế, tâm lý v.v… đều là “dị khúc đồng công” (dgc: Thành ngữ, ý nói có vẻ khác nhau nhưng cùng đóng góp như nhau), phải nghĩ kỹ về nhữ ng chuyện này mới được.
3.2 Lưu Đại Vận
3.3 Lưu niên:
Cách xem lưu niên, kỳ thật so với cách xem đại hạn chẳng mấy khác. Bắt đầu với các sao trong cung lưu niên mệnh (dgc: Tức là cung an lưu Thái Tuế), rồi xem tứ hóa (tứ Hóa theo thiên can của lưu niên, như năm nay Quý Dậu thì an theo Phá Cự Âm Tham), xem tứ Hóa xung kích cung lưu niên hiệu quả ra sao, rồi lại xem hiệu ứng xung kích của tứ Hóa trên cung đại hạn hoặc bản mệnh, lại xem thêm cung vị nào bị tứ Hóa dẫn động.

Khi thảo luận bộ phận này đầu tiên cần thảo luận vấn đề khác biệt giữa các học phái. Về việc xem vận khí mỗi năm, nói chung có ba cách:
· Cách thứ nhất coi lưu niên là chủ, như năm nay là năm Quý Dậu tất cung mệnh của năm ở Dậu, rồi thêm tứ Hóa của can Quý vào lá số mà luận xét.
· Cách thứ hai là phái tiểu hạn. Phái này dùng tiểu hạn để xem số, như năm nay Bính Ngọ là năm 28 tuổi, tìm cung ứng với tiểu hạn năm 28 tuổi coi là cung mệnh, lấy tứ Hóa của cung mệnh mà xem vận khí của năm nay
· Cách thứ ba là tham chiếu cả hai, lưu niên xem biến hóa của hoàn cảnh, tiểu hạn xem biến hóa của tâm thái.

Hôm nay theo sự hiểu biết của người viết (dgc: Tức người viết bài này, không phải ông Tử Vân, không phải dịch giả) thì phái lưu niên là tông phái lớn chính thống, các học giả về sau chỉ cần dùng phép lưu niên là có thể chính xác không sai, bất tất thêm cách nào khác nữa (dgc: Tức là theo ý tác giả bài này thì chỉ cần dụng phép lưu niên thôi, không dùng tiểu hạn).

Thí dụ: Số một thiếu nữ Tham Lang lưu niên hóa Kị ở lưu niên phúc, hội chiếu lại có đại hạn Kị, tất đại biểu năm ấy thiếu nữ này mặt tinh thần có chuyện đau khổ, vì đâu mà đau khổ: Xem kỹ lại bên trong, lưu niên Tham Kị cùng đại hạn Vũ Kị giáp đại hạn phu thê, mà đại hạn phu thê nguyên có hóa Lộc, thêm lưu niên Lộc Tồn và hóa Quyền chiếu, cho thấy thiếu nữ này vì tình mà khổ, ấy bởi vì sự viêc liên hệ đến nhu cầu và sự chú ý giữa nam nữ nổi lên, cô này cùng lúc có hai người nam phải chọn một, nhưng cô khó mà quyết định, vì mỗi người đều có ưu khuyết điểm riêng, rất khó mà luận định (khởi từ cá tính, địa vị xã hội v.v…), lúc ấy cần dụng phép Thái Tuế nhập quái mới có thể thâm cứu rốt ráo được.

Chẳng hạn: Một người nào đó bản mệnh sự nghiệp (dgc: tức cung quan lộc nguyên thủy) hóa Kị, đại hạn sự nghiệp cũng hóa Kị, lưu niên sự nghiệp cũng hóa Kị, phải chăng đại biểu người ấy nhất định sự nghiệp vấp ngã xuống đất đen hoặc bị đuổi việc? Đương nhiên chẳng phải như vậy, bằng không những người cùng lá số đều không tránh khỏi; đó là một cách luận mười phần tức cười. Cách luận hôm nay là: Những người này vào những lúc khác nhau làm những công việc khác nhau, nên cùng một vận khí họ có những phản ứng khác nhau. Cũng vì nguyên nhân đã nói trên, vận mạng của người này người kia khác nhau -lại quy về nguyên lý triết học của Tử Vi mà tôi đã trình bày- là do thời gian bắt đầu khác nhau, sự việc khác nhau mà ra.

4 Cung trọng điểm

“Cung trọng điểm” là phương pháp định vị trong Tử Vi. Chuyện đó ứng cung vị nào trong lá số? Cung nào tình hình bị dẫn động kịch liệt nhất, cung đó là cung trọng điểm.  Những phương pháp kể trên là cho các tình hình tổng quát, còn đoán sự kiện đặc thù thì cần xác nhận “cung trọng điểm”, đây là một điểm quan trọng mà ông Tử Vân đề xuất.

Chẳng hạn: Nói chuyện làm việc, có tiên thiên bản mệnh sự nghiệp (dgc: tức cung quan lộc nguyên thủy), đại hạn sự nghiệp, lưu niên sự nghiệp thành kết cấu 3 tầng. Một người chơi cổ phiếu kiếm tiền, rốt ráo phải xem bản mệnh phúc đức, đại hạn phúc đức, hay lưu niên phúc đức? (dgc: Sở dĩ nhắc đến ba cung phúc ở đây là vì ông Tử Vân cho rằng muốn xem cổ phiếu được thua ra sao phải xem cung phúc là chính, mà không phải là cung tài bạch). (dgc: Đa số trường hợp cung nhiều Lộc Kỵ hội họp nhất là cung trọng điểm).

Câu ở trên ý chỉ: Có tác dụng dẫn động của tứ Hóa và cách cục hay không. Thí dụ ba đời Kị dẫn động thì mạnh hơn hai đời kị (ba đời kị chỉ bản mệnh Kị, đại hạn Kị và lưu niên Kị, hai đời Kị thì chỉ bản mệnh và đại hạn hoặc lưu niên Kị, hay là đại hạn và lưu niên Kị); cho nên song Kị giáp Kị thì thê thảm hơn so với song Kị giáp; song Lộc giáp Lộc thì mạnh hơn so với song Lộc hội. Cung nào có song Lộc giáp Lộc thì tám thành là cung trọng điểm, cùng lý, xem cầu đầu cơ cổ phiếu (dgc: Phân biệt với đầu tư, đầu cơ nghĩa là muốn đánh nhanh rút gọn, chơi ngắn hạn thôi) đến khi song Kị dẫn động cung phúc thì phải coi chừng bị kẹt. Vấn đề định cung vị này phải dựa theo tác dụng hỗ tương giữa đặc tính tinh đẩu cùng tứ Hóa vởi cung vị mà quyết định. Ngàn vạn cẩn thận, bẳng không canh chỗ này ra chỗ nọ thì chẳng hay lắm. (dgc: Đây dùng thành ngữ, dịch sát nghĩa là “bằng không chẳng vỗ trúng mông ngựa mà vỗ nhằm chân ngựa thì chẳng hay lắm” ấy bởi vì vỗ trúng mông ngựa thì ngựa chạy theo ý mình, vỗ nhằm chân ngựa thì bị ngựa đá.)

Ngoài ra quan niệm liên tục cũng ứng dụng trong lưu niên. Sau khi có phép định vị, tìm ra cung trọng điểm rồi, tiếp là luận những biến đổi (dgc: Nguyên tác “sự tiêu trưởng” hơi tối nghĩa) của cung trọng điểm thì dùng tứ Hóa (có khi không chỉ dùng tứ Hóa, mà lưu niên Lộc Tồn và Kình Đà đều cần suy xét) mà luận ra sự biểu hiện. Chẳng hạn hôm nay đi xa đến đất ngoài làm việc, định chỗ công việc ở tiên thiên di và lưu quan lộc, đến năm sau, xem tác dụng tứ Hóa của năm Giáp Tuất đối với cung cũ, như quả tam hợp Khoa Quyền Lộc thêm song Lộc giáp năm sau tác dụng là có cơ hội thăng tiến, lại có cơ hội tăng lương. Các năm khác cũng y thứ tự mà đoán. Nếu là việc làm lâu dài, thì xét tác dụng của đại hạn tứ Hóa và tứ hóa của đại hạn sau, từ đó có thể quyết định quá trình và tính được thua của công việc.

Sau hết, một khái niệm tương đối kỳ quái gọi là “duyên khởi duyên diệt” là phương pháp được dùng để định khi một sự kiện phát sinh và kết thúc. Phương pháp này đòi hỏi người xử dụng vận dụng tứ Hóa rất thuần thục, quý học giả có thể tham khảo các tác phẩm lớn của ông Tử Vân như “Tử Vi luận cầu tài” v.v… Đương nhiên có lúc chẳng phải chỉ tác dụng của tứ Hóa mà tác dụng tam hợp cũng có hiệu quả. Tóm lại, đây là một biến thể của kỹ thuật vận dụng tứ Hóa và cung vị.

Ở trên đã trình bày đại lược cách đoán Tử Vi. Vì thực tế khi gặp lá số thì thiên biến vạn hóa, thành thử quý học giả nên nắm vững tính chất các sao, tứ Hóa, biến hoán cung vị v.v… thì có thể dần dần có tâm đắc. Ngoài ra lúc thường cố đoán thêm nhiều lá số của những người mình đã quen thuộc, vì như vậy rất có lợi cho việc hiểu rõ đặc tính các sao. Nếu đoán chuyện đặc thù thì nên trở lại lãnh ngộ những tác phẩm lớn của ông Tử Vân, các sách “Tử Vi luận cầu tài”, “Tử Vi luận hôn nhân”, “Tử Vi luận quan lộc”, cùng “Tử Vi luận điền trạch”. Phương pháp trong những sách này nói chung là những điểm mà người viết đã trình bày ở trên đây.

Thursday, August 2, 2012

Một số điều cơ bản - TCP


Nhất: Chính diệu: chỉ Tử Vi, Thiên Cơ, Thái Dương, Vũ Khúc, Thiên Đồng, Trinh Thiên Thiên Phủ, Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất Sát, Phá Quân thập tứ diệu.
Nhị: Phụ diệu: chỉ Tả Phụ, Hữu Bật; Thiên Khôi, Thiên Việt tứ diệu.
Tam: Tá diệu: chỉ Văn Xương, Văn Khúc; Lộc Tồn, Thiên Mã tứ diệu.
Tứ: Sát diệu: chỉ Hỏa Tinh, Linh Tinh, Kình Dương Thiên Đà La tứ diệu, lại gọi là “Tứ sát”. Cũng có khi bao gồm cả Địa Không, Địa Kiếp bên trong, xưng là “Lục sát”.
Ngũ: Không Kiếp: chỉ Địa Không, Địa Kiếp nhị diệu.
Lục: Hóa diệu: chỉ Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Hóa Kị tứ diệu.
Thất: Không diệu: chỉ Không Kiếp và Thiên Không. Triệt Không, Tuần Không cũng có thể tính toán là Không diệu, nhưng lực lượng tác dụng yếu kém giác nhược.
Bát: Hình diệu: chỉ Kình Dương cùng Thiên Hình.
Cửu: Kị diệu: chỉ Hóa Kị cùng Đà La.
Thập: Đào hoa chư diệu: chỉ Hồng Loan, Thiên Hỉ; Hàm Trì, Đại Háo; Thiên Diêu; Mộc Dục lục diệu. Liêm Trinh Tham Lang tuy dù có cùng tính chất, nhưng nhập vào chính diệu hệ liệt.
Thập nhất: Văn diệu: chỉ Hóa Khoa; Văn Xương, Văn Khúc; Thiên Tài; Long Trì, Phượng Các lục diệu.
Thập nhị: Khoa danh chư diệu: ngoại trừ các văn diệu đã trình bày ở trên, gia tăng thêm Tam Thai, Bát Tọa; Ân Quang, Thiên Quý; Thai Phụ, Phong Cáo; Thiên Quan, Thiên Phúc bát diệu.
Thập tam: Bản cung: tức chủ sự đích cung viên. Như khán xem tài bạch, đúng là Tài bạch cung. Tài bạch cung tức đúng là bản cung.
Thập tứ: Phong cung: cung viên cùng với bản cung xung đối. Có quan hệ là “Lục trùng”. Như Tý Ngọ nhất trùng, Tý cung và Ngọ cung tức tạo thành phong cung.
Thập ngũ: Hợp cung: cùng với bản cung tạo thành cung viên có quan hệ tam hợp. Như bản cung là Tý viên, do vì Thân Tý Thìn tam hợp, nên Thân Thìn lưỡng cung viên đúng là hợp cung của Tý viên.
Thập lục: Lân cung: tương giáp bản cung với lưỡng cá cung viên. Như bản cung tại Tý, thì Hợi và Sửu lưỡng cung chính là lân cung.
Thập thất: Tam phương: bản cung cùng hợp cung, tổng xưng là tam phương.
Thập bát: Tứ chính: tam phương gia tăng thêm phong cung, xưng là tứ chính.
Thập cửu: Tọa thủ: chính diệu nhập vào bản cung, xưng là tọa thủ. Như Mệnh cung có Thất Sát chính diệu, xưng là Thất Sát tọa thủ Mệnh cung, hoặc đơn giản xưng là Thất Sát thủ Mệnh.
nhị thập: Đồng độ: tinh diệu đồng triều nhất cung. Như ngoại trừ Thất Sát tọa thủ, trong cung lại vừa kiến Lộc Tồn, thì xưng là Lộc Tồn đồng độ.
Nhị thập nhất: Củng chiếu: tinh diệu kiến tại phong cung. Như Thất Sát tọa thủ, đối cung Tử Vi Thiên Phủ; xưng là Tử Vi Thiên Phủ củng chiếu. Có khi lại xưng là triều củng.
Nhị thập nhị: Hội chiếu: tinh diệu kiến tại tam hợp cung như Thất Sát tại Thân cung tọa thủ, Tham Lang tọa Thìn, Phá Quân tọa Tý, xưng là Tham Phá hội chiếu.
Nhị thập tam: Tương giáp: lưỡng tinh diệu vị tại bản cung với lân cung, xưng là tương giáp. Như Dần cung Vũ Khúc Hóa Kị. Kình Dương tại Mão, Đà La tại Sửu, tức là Dương Đà giáp Kị.
Nhị thập tứ: Kiến: phàm tinh diệu hội hợp tại Tam phương Tứ chính, thống nhất xưng là kiến.
Nhị thập ngũ: Trùng: phàm Sát Kị chư diệu kiến tại Tam phương Tứ chính, xưng là trùng, Đẩu số đích trùng, cùng Tử bình đích lục trùng bất đồng. Cũng có khi xưng là trùng phá.
Nhị thập lục: Viên: tức đúng là cung với biệt danh. Lại có khi hợp xưng là cung viên. Cung viên có lưỡng chủng loại, nhất để an Mệnh bàn Địa chi lai đến xưng vị, như Tý cung, Tý viên, Sửu cung, Sửu viên các loại; nhất y theo chủ sự lai đến xưng vị, như Mệnh cung, Mệnh viên, Phụ mẫu cung, Tài bạch cung các loại.
Nhị thập thất: Sát Phá Lang: chỉ Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang tam diệu. Tam khỏa tinh diệu này vĩnh viễn tại tam hợp cung (Tức là tam phương) tương hội, thành là Mệnh vận chuyển biến quan trọng, có khi hợp xưng là Sát Phá Lang.
Nhị thập bát: Nhật Nguyệt: chỉ Thái Dương, Thái Âm nhị chính diệu.
Nhị thập cửu: Nhập miếu: tinh diệu được đối xử tại trạng thái tốt đẹp nhất. Giống như tinh diệu thụ nhân cung phụng, cố xưng là nhập miếu.
Tam thập: Tọa vượng: trạng thái tốt đẹp của tinh diệu tuy dù bất như khi nhập miếu, nhưng lại tọa lâm vượng cung, tinh diệu y nhiên hữu lực.
Tam thập nhất: Lạc hãm: tinh diệu bị đối xử tại tối bất thích nghi với hoàn cảnh, đến nỗi Cát diệu vô lực, Hung diệu tăng hung.
Tam thập nhị: Bình nhàn: tinh diệu sở lâm tại cung viên chúc với trung tính.
Tam thập tam: Tá tinh: phàm bản cung vô chính diệu, thì tá mượn tinh diệu từ đối cung nhập bản cung thôi toán, xưng là tá tinh. Vô luận thôi toán Mệnh bàn thập nhị cung, hoặc đại hạn thập nhị cung, cho đến lưu niên, lưu nguyệt, lưu nhật, lưu thì, đều cần phải sử dụng tá tinh pháp.