I Những điểm học tập quan trọng
Lịch
sử hình thành và phát triển của Tử Vi không rõ ràng, mà cũng không cần
chú ý quá. Hoàn toàn không biết cũng chẳng ảnh hưởng gì đến nhận thức Tử
Vi. Nếu hứng thú thì có thể tìm thấy tư liệu phát triển 40 năm gần đây,
nhưng đó cũng chỉ là chuyện trà dư tửu hậu. Phát triển trọng yếu bắt
đầu khoảng mười năm trước, khi Tuệ Tâm trai chủ giới thiệu Tử Vi trên
Trung Quốc thời báo cho đến ngày nay. Bộ phận phát triển này hết sức có
giá trị. Để giới thiệu và nghiên khảo, người viết có thời gian sẽ ở phần
sau giới thiệu, tên bài là “Sự phát triển của khoa Tử Vi trong mười năm
qua: Từ duy tâm luận đến tâm vật hợp nhất”. (dịch giả chú = dgc: Bài
này đã dịch đăng trên tuvilyso. Đoạn này giúp cho ta biết tác giả bài
này không phải là ông Tử Vân. Vậy thì hẳn phải là một người muốn xiển
dương cách luận Tử Vi của ông Tử Vân, hy vọng là nắm vững cách luận
này).
Trong việc tập luyện
Tử Vi, theo lý giải hôm nay của người viết (dgc: Tức người viết bài này,
không phải ông Tử Vân, không phải dịch giả), thì các điểm quan trọng có
thể phân thành vài loại: Một là tính chất tinh đẩu, hai là biến hóa của
tứ Hóa, ba là biến hóa của các cung.
1.1 Tính chất tinh đẩu
Khi
an lá số Tử Vi, trên lá số các danh từ như Tử Vi, Thiên Cơ, Thái Dương,
Cự Môn, Thiên Phủ Hỏa Tinh, Văn Xương v.v… đều chỉ các sao. Nói chung,
những sao này chỉ là “phù hiệu tượng trưng”, không hề đại biểu rằng các
“sao” này có quan hệ với khoa thiên văn học, bởi vậy một số người nói Tử
Vi dùng “sao ảo” (dgc: phóng dịch từ Hán Việt “hư tinh”) là cốt đại
biểu ý ấy.
Tử Vi nghe nói có hơn
trăm sao, kỳ thật thường dùng không quá khoảng 40 sao, còn lại xem cho
đẹp mà không mấy khi dùng. Việc này sẽ đề cập thêm sau. Sao của Tử Vi có
tính chất đa diện, ở mỗi cung khác nhau được diễn giải khác nhau, nhưng
đặc tính cơ bản thì chẳng có gì thay đổi, chẳng hạn: Thiên Cơ đại biểu
linh hoạt, cơ động, hoạt bát, tư lự v.v…; ở cung mệnh biểu thị người
thông minh, cơ trí, linh hoạt…; ở phu thê biểu thị người có cảm tình bất
định, dễ đổi thay; ở tài bạch là người linh hoạt, có nhiều cách làm ra
tiền v.v…
Về tính chất sao đặc
biệt chú ý “cách cục”. Cách cục là kết quả do một số sao cùng hội chiếu
mà sinh ra, tác dụng có điểm tương tựa phản ứng hóa học, so với phản ứng
“vật lý đơn thuần” -sao độc thủ- thì quan trọng hơn nhiều, chẳng hạn
“Cự Kình Hỏa chung thân ích tử” đại biểu người hành sự tâm lý gấp vội,
kịch liệt, không được việc, tự tìm phiền não, đến mức chẳng lùi được
nữa. Có điểm cần đặc biệt chú ý: Các cách cục này phải được tứ Hóa dẫn
động mới tính, bằng không thì không có tác dụng; Nhớ kỹ, nhớ kỹ!
Phương pháp nhớ đặc
tính các sao thì như bát tiên quá hải, mỗi người hiển thị một phép thần
thông (dgc: Ý muốn nói mỗi người phù hợp một cách học nhớ khác nhau),
nhưng người viết có một số phép nhớ nhanh, biết đâu có thể giúp cả nhà
một tay, sẽ trình bày sau.
1.2 Biến hóa của tứ Hóa
Tác
dụng của tứ Hóa là đặc điểm của khoa Tử Vi, mười phần quan trọng, nhưng
lại liên hệ cực kỳ mật thiết với đặc tính của các sao. Tứ hóa là bốn
đặc tính hóa Lộc, hóa Quyền, hóa Khoa, hóa Kỵ. Nói giản dị: Hóa Lộc là
thuận lợi, hưởng thụ, đạt được; hóa Quyền là kiên định, chấp trước,
quyền lực; hóa Khoa là thanh danh, học vấn; hóa Kị là khốn khó, trở
ngại, không dễ dàng.
Điểm quan trọng của tứ
Hóa là ở chữ “hóa”. Hóa ý là “biến thành”, hoặc là tăng cường một loại
tín hiệu nào đó. Cho nên lấy Cự Môn làm thí dụ thì: Cự hóa Lộc đại biểu
vì miệng lưỡi mà có tiền tài, nên có thể là người diễn giảng, dạy học,
cố vấn pháp luật v.v… Nếu hóa Quyền thì đại biểu lời nói có quyền uy, hễ
nói là làm, nói được ngưòi nghe v.v… hóa Kị thì biểu thị lời nói phạm
kẻ khác, vì lời nói mà xảy chuyện phong ba v.v… Chú ý một chút, đặc tính
không hóa Khoa của Cự Môn. Người có mồm có miệng chẳng phải đến nơi nào
cũng nổi danh sao?
Tứ Hóa cần phải nối
kết vào cung vị mới xem được việc, cho nên hai yếu tố này khó mà tách
rời nhau; nhớ kỹ, nhớ kỹ! Thậm chí chỉ dựa theo sao được hóa của tứ Hóa
và cung vị đã có thể đoán một số chuyện quan trọng, sự kiện này sẽ được
thuyết minh trong phần cung vị biến hóa.
Gần đây một số người
đã bỏ Quyền Khoa, chỉ dụng Lộc Kị. Những người này do Liễu Vô cư sĩ đại
biểu. Kỳ thật cách xem của ông không hoàn chỉnh. Ngoài hóa Lộc hóa Kị
ra, hóa Quyền và hóa Khoa cũng có tác dụng nhân sinh trọng đại. Không
tất yếu nhất định dựa vào việc này phê phán người ta.
Bảng tứ hóa như : Giáp
Liêm Phá Vũ Dương, Ất Cơ Lương Vi Nguyệt v.v… thì nhất định phải nhớ.
Cách an tứ hóa có một số quy tắc, như hiện tại đã được chỉnh lý (dgc:
không rõ nghĩa). Phần này có thể tham khảo tư liệu, như : Tử Vi đẩu số
đạo độc – Tinh diệu giải thuyết thiên, Trần Thế Hưng, Tiêm Đoan xuất bản
xã, trang 170 đến 187.
1.3 Biến hóa của cung vị
Lá
số Tử Vi cộng lại có 12 cách, nhưng có 13 cung, phân biệt là mệnh,
thân, huynh đệ, tử nữ (dgc: tức tử tức), tài bạch, tật ách v.v… Trong đó
thân có thể ở 6 cung vị là mệnh, phu thê, tài bạch, thiên di, sự nghiệp
(dgc: tức quan lộc), phúc đức. Mỗi cung vị đại biểu một phương diện
hoặc quan hệ. Tử Vi chia đời sống ra 12 phương diện để nghiên cứu; tỷ
như cá tính, tình bạn, liên hệ anh chị em, ái tình; tình thân về phương
diện luân lý, như phụ mẫu, tử nữ hoặc là cái nhìn về việc truy cầu tài
phúc, quan hệ nhân tế, quan niệm công danh mạnh hoặc yếu, phẩm chất nơi
cư trú, đòi hỏi sinh hoạt tinh thần v.v… là đời sống, nên nghiên cứu đời
sống cũng khởi từ những điều ấy.
Vì cung vị đại biểu sự
phát sinh của vụ việc, cho nên có lúc đại biểu dấu tích trùng trùng của
tâm thái. Nếu kết hợp với tứ Hóa thì có nhiều vụ việc phát sinh; chẳng
hạn: Một người cung phu thê hóa Kị, nhưng đại hạn phu thê hóa Lộc, sự
kiện này thông thường biểu thị người ấy dễ sinh chuyện ngoại tình; có
thể giải thích rằng quan niệm về cảm tình không đúng, lại có cơ hội
hưởng thụ tình cảm. Nếu đã thành hôn thì dễ sinh chuyện ngoại tình; nếu
chưa thành hôn dễ bỏ nhau hoặc phát sinh hiện tượng lo sợ (dgc: dịch tạm
thôi vì không rõ “đảm tâm đích hiện tượng” ở đoạn này ám chỉ gì; hay
muốn nói trong khi yêu mà lòng bất ổn?)
Ba yếu tố trên là
trọng điểm của khoa Tử Vi, khi đoán mệnh thực tế, thiếu một trong ba là
không được. Chỉ cần có quan niệm không đúng là đoán mệnh dễ sai lầm.
Nhưng ngày nay ngàn vạn cần hiểu rằng chỉ bằng ba yếu tố kể trên vẫn
không đủ luận đoán chính xác, bởi còn phải du nhập điều kiện, trạng thái
nữa.
Du nhập điều kiện,
trạng thái là khác biệt giữa quan niệm Tử Vi nay và xưa. Muốn hiểu rõ lá
số phàm khi với người khác có quan hệ hoặc liên quan thì phải có tư
liệu của người đó mới mong luận đoán một cách hợp lý. Thí dụ: Làm bạn
với một người, nếu không có tư liệu của người đó thì chúng ta chẳng thể
tiên đoán trạng huống giao vãng về sau (dgc: Thực ra chỉ có thể nói là
nếu không du nhập dữ liệu thì lời đoán của trạng huống giao vãng về sau
sẽ có xác xuất thấp hẳn đi). Lại thí dụ: Muốn biết cảm tình giữa ta và
các anh chị em của ta thì phải du nhập tư liệu của anh chị em vào. Phép
du nhập dữ liệu này gọi là “Thái Tuế nhập quái”, hết sức hữu hiệu và
chính xác. Phép này được ông Tử Vân đề cập trong sách lần đầu tiên. Ông
nói: Theo chi năm sinh của người ta mà đưa vào lá số, căn cứ tam hợp của
cung vị, tính chất của tinh đẩu, tứ hóa mà đoán liên hệ giữa người ấy
và chủ nhân lá số. Cách này giúp Tử Vi bước một bước dài ra ngoài, bởi
vì trong đời sống thật có rất nhiều việc liên hệ đến người khác, sau khi
du nhập dữ liệu của người ta vào thì có thể đoán những hành động hỗ
tương giữa người với ta thêm chính xác. Cho nên hiểu phép Thái Tuế nhập
quái là kỹ xảo giúp việc luân Tử Vi tiến thêm một bước. Nhớ kỹ, nhớ kỹ!
2 Thái Tuế nhập quái
Tử
Vi có một số cung do tự kỷ (tự mình) quyết định, một số cung do tự
nhiên quyết định. Tự nhiên quyết định thì như các cung huynh đệ, tử tức,
tật ách, nô bộc, phụ mẫu; tự kỷ quyết định có các cung phu thê, thiên
di, sự nghiệp, phúc đức. Còn khi mới sinh không thể nào quyết định nhưng
sau thì có thể tự quyết định thì có cung điền trạch. Ngàn vạn phải
hiểu: Những gì do đặc tính sao hiển thị trên lá số chỉ là quan niệm của
chủ nhân lá số về sự việc đó, hoặc giả nói là “ý thức hình thái”, không
thể dựa vào mà định cát hung. Nếu muốn đoán cát hung thì phải du nhập
“điều kiện” mới được. Thí dụ: Muốn đoán liên hệ tình cảm giữa chủ lá số
với anh chị em thì phải biết năm sinh của các anh chị em, du nhập chúng
vào lá số.
Phụ
chú: Việc ứng dụng “Thái Tuế nhập quái” chẳng đơn giản, nhưng nguyên
tắc cơ bản thì có thể thưa cùng quý vị: Như chị của quý vị sinh năm 57
(dgc: Đây ám chỉ năm Trung Hoa Dân Quốc thứ 57, tức năm 1968) thì năm là
Mậu Thân thì dùng can Mậu để định tứ Hóa: Mậu Tham Nguyệt Hữu Cơ. Lúc
ấy xem Tham hóa Lộc có cư hoặc tam hợp cung mệnh của quý vị không, có
thì chị của quý vị chỉ cho quý vị mà không đòi hoàn lại, hoặc nói là chị
quý vị đối xử tốt với quý vị. Đương nhiên nếu Lộc của chị quý vị khiến
mệnh của quý vị được song Lộc giáp thì hiệu quả cũng vậy (dgc: Nhưng
theo ý người dịch thì Lộc nhập quái giúp tạo thành song Lộc giáp mệnh có
nghĩa là liên hệ tốt đẹp có tính ẩn, ít được người ngoài biết hơn so
với trường hợp cùng cung hoặc tam hợp mệnh).
Mặt
khác, nếu hóa Kị của chị quý vị nhập cung mệnh của quý vị thì có nghĩa
hai bên có khó liên hệ tốt, hoặc chị quý vị thiên sinh đã phòng ngờ quý
vị. Còn về cá tính của chị quý vị thì lấy cung Thân làm chủ, tham khảo
cung Thân và tam phương tứ chính để định cá tính, lúc ấy cần thêm tác
dụng tứ hóa của Mậu Tham Nguyệt Hữu Cơ, hợp với tứ Hóa đã có sẵn trong
lá số cùng tham khảo.
Ví
dụ:Tình huống giữa quý vị và bà chị sinh năm 57 (dgc: tức 1968) thì
luận như sau: Thứ nhất, nếu cung Thân ở tam phương cung mệnh của chủ lá
số thì cá tính của bà chị và chủ lá số tương cận, tương đối dễ hiểu nhau
– Đây bởi vì xuất hiện ở tam phương thì các tinh đẩu phần lớn tương tự –
chú ý tính chất tinh đẩu đã đề cập trước đây. Thứ hai, xét tác dụng của
tứ Hóa Mậu Tham Nguyệt Hữu Cơ trên cung anh chị em (dgc: tức cung huynh
đệ), nếu hóa Lộc có tác dụng mạnh hoặc hội chiếu thì có nghĩa hai bên
tình cảm không tệ. Hóa Quyền biểu thị giữa anh chị em có khả năng chi
phối mạnh mẽ. Nếu hóa Kị dẫn động (dgc: Nghĩa là hóa Kị trong tam phương
tứ chính hoặc tạo thành cảnh song Kị giáp) thì có nghĩa hai bên cảm
tình không thuận hoặc có chuyện bất lợi khác.
Đó
là khái niệm cơ bản của phép “Thái Tuế nhập quái”. Đương nhiên Thái Tuế
nhập quái cũng có thể dùng để đoán đại hạn và lưu niên, nhưng có hạn
chế, ngàn vạn nhớ kỹ, không thể toàn diện thổi phồng. Sự thật là huynh
đệ xem như thế, cha mẹ cũng xem như thế, thêm can năm sinh của cha mẹ
vào để quyết định (dgc: Không đề rõ quyết định gì, ý hẳn là quyết định
liên hệ giữa cha mẹ và chủ nhân lá số), xem địa chi của cha mẹ để định
cá tính của họ. Cảm tình nam nữ cũng đoán như vậy, thầy cô hoặc giảng
viên cũng như vậy, bạn học bạn bè cũng như vậy. Cái phức tạp của Thái
Tuế nhập quái là quan hệ hỗ động giữa hai cung khác nhau – Đó là chỗ
tinh yếu của của phép Thái Tuế nhập quái, trước đây đã bàn một chút, sau
này sẽ phân tích kỹ hơn.
3 Phép đoán Tử Vi
Dùng
Tử Vi luận mệnh vận có hai trạng huống. Một là vĩ quan (dgc: Cái nhìn
rộng lớn), khởi từ vận mạng trọn đời, rồi đến vận 10 năm (đại hạn), cuối
cùng đến lưu niên (vận một năm). Một loại khác gọi là vi quan (dgc: Cái
nhìn nhỏ hẹp), mục tiêu là đoán những gì xảy ra trong một ngày, một
giờ. Nói chung, hai trạng huống này phương pháp giống nhau, chỉ là việc
áp dụng tính chất tinh đẩu cần đổi chút ít.
Vì vĩ quan tương đối
thật dụng, lại có nhiều khả năng giải quyết những câu hỏi trong tâm
người ta, nên nói chung luận mệnh chủ là vĩ quan. Khi vĩ quan thành thục
rồi thì tự nhiên có thể xử dụng vi quan luận mệnh.
Nếu làm theo vĩ quan thì cần suy tư rất nhiều vấn đề rồi mới có thể đoán sự việc diễn biến ra sao kết quả thế nào.
Hệ thống Tử Vi đến lưu niên tổng cộng có ba tầng kết cấu,
· Tầng một là bộ phận lá số nguyên thủy và tứ hóa nguyên thủy
· Tầng hai bộ phận lá số đại hạn và tứ Hóa ứng với can cung đại hạn;
· Tầng ba là bộ phận lá số lưu niên và lưu tứ Hóa năm xem số (như năm dân quốc 82 là năm Quý Dậu thì lấy tứ Hóa theo can Quý).
Ba
tầng bộ phận này, cơ bản tầng một lá số nguyên thủy, nhưng thực tế là
những gì hiện ra trong lá số lưu niên. Đại hạn thì đóng vai trò truyền
thừa; tức lá số nguyên thủy là căn bản, là xương cốt, lá số đại hạn là
cơ thịt, thần kinh, lá số lưu niên biểu diện da ngoài và ngũ quan. Nhưng
đó chỉ là những sự việc hết sức chung chung thôi (dgc: nguyên văn “phổ
biến hóa”, chỉ dịch ý thôi), đối với những sự việc đặc thù tất phải du
nhập dữ liệu mới luận được là cát hoặc hung.
3.1 Bộ phận thứ nhất: Lá số nguyên thủy
Cầm
lá số, đầu tiên cần xác nhận năm tháng ngày giờ sinh chính xác hay
không (dgc: Điểm này được ông Tử Vân nhấn mạnh trong nhiều sách. Rất
nhiều trường hợp đoán sai chỉ vì lá số đã sai từ đâu, nên việc thiết lập
năm tháng ngày giờ sinh không chỉ là bước đầu mà là một trong những
bước quan trọng nhất của diễn trình đoán mệnh), rồi nắm vững kết cấu của
toàn thể lá số, nắm vững tính chất tinh đẩu, xem có tạo thành cách cục
không, xem sự dẫn động của tứ Hóa vì có liên hệ đến việc cách cục được
phát động hay không.
Xem lá số nguyên thủy
bắt đầu với cung mệnh, vì mệnh là trung khu của các cung còn lại. Cung
mệnh quyết định tính cách, đặc tính đối với “tâm thái” của các cung
khác; đây là một điểm quan trọng, cần chú ý.
Tiếp đó xem cung thân,
vì thân có tác dụng tăng cường hoặc điều chỉnh nên là một cung cần tu
chính. Ở đây cần nói rõ tác dụng tăng cường là: thân cư cung nào thì
điểm quan trọng cần chú ý của đời người là cung đó. Tỷ dụ: Người có thân
trùng hợp phu thê (dgc: tức thân cư phu thê) thì mục tiêu truy cầu
trong đời chủ yếu là sinh hoạt gia đình hạnh phúc mỹ mãn; lại tỉ dụ thân
trùng hợp với thiên di (dgc: tức thân cư thiên di) tất mục tiêu cuộc
đời là quan hệ nhân tế viên mãn hoặc là được người khác tôn trọng và bội
phục, thành thử các phương diện khác nếu không như ý thì cũng chẳng
quan tâm lắm. Tác dụng tu chính tức là: Tính cách cá nhân lần hồi với
tuổi tác chuyển biến sang đặc tính các tinh đẩu của cung thân. Tỉ như
mệnh vô chính diệu (không có chính tinh, giải thích sau) nhưng thân có
chính tinh thì có thể, sớm thì lúc trên hai mươi tuổi, chính tinh ở cung
thân dần dà phát sinh tác dụng.
Xem đặc tính sao trong
lá số không chỉ xem cung mệnh có các sao nào, vì quy tắc của Tử Vi là
phải nhập hết tam phương tứ chinh vào tham khảo mới đúng. Lý của tam
phương tứ chính sẽ bàn sau. Tam phương ý nói ngoài cung gốc của mệnh ra,
sao trong tài bạch thiên di và sự nghiệp đều ảnh hưởng tính cách con
người.
Quy
tắc này dẫn đến một đặc điểm của khoa Tử Vi: Mười bốn chính tinh đại
thể được chia thành vài tổ hợp sao. Chẳng hạn: Tử Phủ Tướng một nhóm,
Sát Phá Tham một nhóm, Cơ Nguyệt Đồng Lương là một nhóm, tối hậu Thái
Dương và Cự Môn thành một nhóm. Trong đó Tử Phủ Tướng và Sát Phá Tham
v.v… có thể hội chiếu nhau, Cơ Nguyệt Đồng Lương tất có thể hội chiếu
cùng Nhật Cự. Ở đây hội chiếu ý chỉ: Khi một sao xuất hiện tất tam
phương tứ chính cũng có một số sao, theo quy tắc Tử Vi mà nói, hội chiếu
nghĩa là các sao này có khả năng sinh ra tác dụng. Lý kia là tứ chính,
tức là tác dụng tam phương cộng với cung giáp. Ý nghĩa của giáp chỉ hai
cung bên cạnh cung mệnh, tức tác dụng của cung anh chị em (dgc: cung
huynh đệ) và cung phụ mẫu. Khi hai sao đôi xuất hiện ở hai cung huynh đệ
và phụ mẫu thì sinh tác dụng; tỉ như: Văn Xương, Văn Khúc, một ở cung
phụ mẫu, một ở cung huynh đệ thì có thể sinh tác dụng; tỉ dụ khác: Kiếp
Không, Hỏa Linh, Phụ Bật, Lộc Tồn và Hóa Lộc giáp v.v… đều tính là “sao
đôi”.
Tất cả chúng ta có thể
nghĩ, Tử Vi dàn xếp như vậy có lý chăng, lý ở đâu? Cung mệnh sao lại
cần xét thêm tác dụng của tài bạch, thiên di, sự nghiệp, có khi thêm tác
dụng của phụ mẫu và huynh đệ. Nếu nghĩ kỹ về các loại quan hệ này thì
có thể hiểu rõ thêm quan niệm xã hội của Tử Vi. Nếu suy nghĩ về sinh
hoạt trong xã hội thực tế, nhất định có thể giúp bạn hiểu “đời người”
rốt cuộc là gì.
Tỉ
như: Theo Tử Vi cung phu thê xấu tốt do: phu thê, thiên di, sự nghiệp,
phúc đức, có khi huynh đệ và tử tức cũng có tác dụng, sự kiện này làm
sao lý giải? Đại khái có thể như sau: Thành bại của hôn nhân, ngoài quan
niệm hôn nhân của bản thân ra (tức đặc tính các sao trong cung phu
thê), còn được quyết định bởi những nhân tố khác, như địa vị xã hội của
hai bên tức quan niệm “môn đăng hộ đối” (cung thiên di), như sự nghiệp
thành công hay không cũng ảnh hưởng thành bại của sinh hoạt gia đình
(cung sự nghiệp tốt hoặc xấu), lại như sự hòa hợp và nhu cầu tâm linh là
cái phúc nông cạn hoặc sâu dày ảnh hưởng đến sự ổn định của tình cảm và
hôn nhân; tối hậu vấn đề tình dục hoặc sinh dục đời sau cùng với ảnh
hưởng của anh chị em và bè bạn, đều ảnh hưởng đến sự thành bại của cảm
tình luyến ái. Các loại sự việc này đều liên hệ đến cảm tình và hôn
nhân, cho nên dùng thuật ngữ hiện đại mà nói thì: Tình cảm hoặc hôn
nhân, Tử Vi cho rằng địa vị trong xã hội, địa vị trong sự nghiệp, cảm
nhận tâm linh (mong muốn hưởng phúc), quan điểm giáo dục (sinh hoạt tình
dục), nhu cầu giống tập thể v.v… đều có ảnh hưởng. Nếu thảo luận về gia
đình trong xã hội hiện đại thì: Luân lý, tình dục, kinh tế, tâm lý v.v…
đều là “dị khúc đồng công” (dgc: Thành ngữ, ý nói có vẻ khác nhau nhưng
cùng đóng góp như nhau), phải nghĩ kỹ về nhữ ng chuyện này mới được.
3.2 Lưu Đại Vận
3.3 Lưu niên:
Cách
xem lưu niên, kỳ thật so với cách xem đại hạn chẳng mấy khác. Bắt đầu
với các sao trong cung lưu niên mệnh (dgc: Tức là cung an lưu Thái Tuế),
rồi xem tứ hóa (tứ Hóa theo thiên can của lưu niên, như năm nay Quý Dậu
thì an theo Phá Cự Âm Tham), xem tứ Hóa xung kích cung lưu niên hiệu
quả ra sao, rồi lại xem hiệu ứng xung kích của tứ Hóa trên cung đại hạn
hoặc bản mệnh, lại xem thêm cung vị nào bị tứ Hóa dẫn động.
Khi
thảo luận bộ phận này đầu tiên cần thảo luận vấn đề khác biệt giữa các
học phái. Về việc xem vận khí mỗi năm, nói chung có ba cách:
· Cách
thứ nhất coi lưu niên là chủ, như năm nay là năm Quý Dậu tất cung mệnh
của năm ở Dậu, rồi thêm tứ Hóa của can Quý vào lá số mà luận xét.
· Cách
thứ hai là phái tiểu hạn. Phái này dùng tiểu hạn để xem số, như năm nay
Bính Ngọ là năm 28 tuổi, tìm cung ứng với tiểu hạn năm 28 tuổi coi là
cung mệnh, lấy tứ Hóa của cung mệnh mà xem vận khí của năm nay
· Cách thứ ba là tham chiếu cả hai, lưu niên xem biến hóa của hoàn cảnh, tiểu hạn xem biến hóa của tâm thái.
Hôm nay theo sự hiểu biết của người viết (dgc: Tức người viết bài này, không phải ông Tử Vân, không phải dịch giả) thì phái lưu niên là tông phái lớn chính thống,
các học giả về sau chỉ cần dùng phép lưu niên là có thể chính xác không
sai, bất tất thêm cách nào khác nữa (dgc: Tức là theo ý tác giả bài này
thì chỉ cần dụng phép lưu niên thôi, không dùng tiểu hạn).
Thí
dụ: Số một thiếu nữ Tham Lang lưu niên hóa Kị ở lưu niên phúc, hội
chiếu lại có đại hạn Kị, tất đại biểu năm ấy thiếu nữ này mặt tinh thần
có chuyện đau khổ, vì đâu mà đau khổ: Xem kỹ lại bên trong, lưu niên
Tham Kị cùng đại hạn Vũ Kị giáp đại hạn phu thê, mà đại hạn phu thê
nguyên có hóa Lộc, thêm lưu niên Lộc Tồn và hóa Quyền chiếu, cho thấy
thiếu nữ này vì tình mà khổ, ấy bởi vì sự viêc liên hệ đến nhu cầu và sự
chú ý giữa nam nữ nổi lên, cô này cùng lúc có hai người nam phải chọn
một, nhưng cô khó mà quyết định, vì mỗi người đều có ưu khuyết điểm
riêng, rất khó mà luận định (khởi từ cá tính, địa vị xã hội v.v…), lúc
ấy cần dụng phép Thái Tuế nhập quái mới có thể thâm cứu rốt ráo được.
Chẳng
hạn: Một người nào đó bản mệnh sự nghiệp (dgc: tức cung quan lộc nguyên
thủy) hóa Kị, đại hạn sự nghiệp cũng hóa Kị, lưu niên sự nghiệp cũng
hóa Kị, phải chăng đại biểu người ấy nhất định sự nghiệp vấp ngã xuống
đất đen hoặc bị đuổi việc? Đương nhiên chẳng phải như vậy, bằng không
những người cùng lá số đều không tránh khỏi; đó là một cách luận mười
phần tức cười. Cách luận hôm nay là: Những người này vào những lúc khác
nhau làm những công việc khác nhau, nên cùng một vận khí họ có những
phản ứng khác nhau. Cũng vì nguyên nhân đã nói trên, vận mạng của người
này người kia khác nhau -lại quy về nguyên lý triết học của Tử Vi mà tôi
đã trình bày- là do thời gian bắt đầu khác nhau, sự việc khác nhau mà
ra.
4 Cung trọng điểm
“Cung trọng điểm” là phương pháp định vị trong Tử Vi. Chuyện đó ứng cung vị nào trong lá số?
Cung nào tình hình bị dẫn động kịch liệt nhất, cung đó là cung trọng
điểm. Những phương pháp kể trên là cho các tình hình tổng quát, còn
đoán sự kiện đặc thù thì cần xác nhận “cung trọng điểm”, đây là một điểm
quan trọng mà ông Tử Vân đề xuất.
Chẳng hạn: Nói
chuyện làm việc, có tiên thiên bản mệnh sự nghiệp (dgc: tức cung quan
lộc nguyên thủy), đại hạn sự nghiệp, lưu niên sự nghiệp thành kết cấu 3
tầng. Một người chơi cổ phiếu kiếm tiền, rốt ráo phải xem bản
mệnh phúc đức, đại hạn phúc đức, hay lưu niên phúc đức? (dgc: Sở dĩ nhắc
đến ba cung phúc ở đây là vì ông Tử Vân cho rằng muốn xem cổ phiếu được
thua ra sao phải xem cung phúc là chính, mà không phải là cung tài
bạch). (dgc: Đa số trường hợp cung nhiều Lộc Kỵ hội họp nhất là cung
trọng điểm).
Câu
ở trên ý chỉ: Có tác dụng dẫn động của tứ Hóa và cách cục hay không.
Thí dụ ba đời Kị dẫn động thì mạnh hơn hai đời kị (ba đời kị chỉ bản
mệnh Kị, đại hạn Kị và lưu niên Kị, hai đời Kị thì chỉ bản mệnh và đại
hạn hoặc lưu niên Kị, hay là đại hạn và lưu niên Kị); cho nên song Kị
giáp Kị thì thê thảm hơn so với song Kị giáp; song Lộc giáp Lộc thì mạnh
hơn so với song Lộc hội. Cung nào có song Lộc giáp Lộc thì tám thành là
cung trọng điểm, cùng lý, xem cầu đầu cơ cổ phiếu (dgc: Phân biệt với
đầu tư, đầu cơ nghĩa là muốn đánh nhanh rút gọn, chơi ngắn hạn thôi) đến
khi song Kị dẫn động cung phúc thì phải coi chừng bị kẹt. Vấn đề định
cung vị này phải dựa theo tác dụng hỗ tương giữa đặc tính tinh đẩu cùng
tứ Hóa vởi cung vị mà quyết định. Ngàn vạn cẩn thận, bẳng không canh chỗ
này ra chỗ nọ thì chẳng hay lắm. (dgc: Đây dùng thành ngữ, dịch sát
nghĩa là “bằng không chẳng vỗ trúng mông ngựa mà vỗ nhằm chân ngựa thì
chẳng hay lắm” ấy bởi vì vỗ trúng mông ngựa thì ngựa chạy theo ý mình,
vỗ nhằm chân ngựa thì bị ngựa đá.)
Ngoài
ra quan niệm liên tục cũng ứng dụng trong lưu niên. Sau khi có phép
định vị, tìm ra cung trọng điểm rồi, tiếp là luận những biến đổi (dgc:
Nguyên tác “sự tiêu trưởng” hơi tối nghĩa) của cung trọng điểm thì dùng
tứ Hóa (có khi không chỉ dùng tứ Hóa, mà lưu niên Lộc Tồn và Kình Đà đều
cần suy xét) mà luận ra sự biểu hiện. Chẳng hạn hôm nay đi xa đến đất
ngoài làm việc, định chỗ công việc ở tiên thiên di và lưu quan lộc, đến
năm sau, xem tác dụng tứ Hóa của năm Giáp Tuất đối với cung cũ, như quả
tam hợp Khoa Quyền Lộc thêm song Lộc giáp năm sau tác dụng là có cơ hội
thăng tiến, lại có cơ hội tăng lương. Các năm khác cũng y thứ tự mà
đoán. Nếu là việc làm lâu dài, thì xét tác dụng của đại hạn tứ Hóa và tứ
hóa của đại hạn sau, từ đó có thể quyết định quá trình và tính được
thua của công việc.
Sau
hết, một khái niệm tương đối kỳ quái gọi là “duyên khởi duyên diệt” là
phương pháp được dùng để định khi một sự kiện phát sinh và kết thúc.
Phương pháp này đòi hỏi người xử dụng vận dụng tứ Hóa rất thuần thục,
quý học giả có thể tham khảo các tác phẩm lớn của ông Tử Vân như “Tử Vi
luận cầu tài” v.v… Đương nhiên có lúc chẳng phải chỉ tác dụng của tứ Hóa
mà tác dụng tam hợp cũng có hiệu quả. Tóm lại, đây là một biến thể của
kỹ thuật vận dụng tứ Hóa và cung vị.
Ở
trên đã trình bày đại lược cách đoán Tử Vi. Vì thực tế khi gặp lá số
thì thiên biến vạn hóa, thành thử quý học giả nên nắm vững tính chất các
sao, tứ Hóa, biến hoán cung vị v.v… thì có thể dần dần có tâm đắc.
Ngoài ra lúc thường cố đoán thêm nhiều lá số của những người mình đã
quen thuộc, vì như vậy rất có lợi cho việc hiểu rõ đặc tính các sao. Nếu
đoán chuyện đặc thù thì nên trở lại lãnh ngộ những tác phẩm lớn của ông
Tử Vân, các sách “Tử Vi luận cầu tài”, “Tử Vi luận hôn nhân”, “Tử Vi
luận quan lộc”, cùng “Tử Vi luận điền trạch”. Phương pháp trong những
sách này nói chung là những điểm mà người viết đã trình bày ở trên đây.
No comments:
Post a Comment
Bạn vui lòng chờ kiểm duyệt