Search This Blog

Thursday, May 24, 2012

HOÀN THIỆN BẢN THÂN - CHƯƠNG III TU LUYỆN TÂM TÍNH

CHƯƠNG III: TU LUYỆN TÂM TÍNH

Tất cả các người tu Pháp Luân Công phải đặt sự tu luyện tâm tính lên hàng đầu, và tin chắc rằng tâm tính là chìa khóa để phát triển công. Ðây là nguyên lý về tu luyện ở cao tầng. Nói rõ hơn, công lực quyết định trình độ của một người không phải được phát triển qua sự luyện tập, nhưng qua sự tu luyện tâm tính. Sự tiến bộ về tâm tính nói dễ hơn là thực hành. Người tu phải có thể buông bỏ thật nhiều, nâng cao bản chất giác ngộ của mình, chịu đựng đau khổ này đến đau khổ khác, và chấp nhận những gì hầu như không thể chấp nhận được, v..v. Tại sao nhiều người tu nhiều năm mà công của họ vẫn không tăng lên? Lý do căn bản là: thứ nhất họ không chú trọng vào tâm tính; và thứ nhì là họ không biết chính pháp ở cao tầng. Vấn đề này phải được nói rõ. Nhiều vị thầy dạy luyện Công có nói về tâm tính; họ đang giảng dạy rất đúng. Những người mà chỉ dạy các động tác và các kỹ thuật nhưng không bao giờ bàn về tâm tính, thật ra là đang dạy tu luyện theo tà pháp. Vì vậy, người tu phải cố gắng thật nhiều để nâng cao tâm tính của mình. Chỉ như vậy họ mới có thể bước vào sự tu luyện ở cao tầng.

1. Nội hàm của tâm tính

Tâm tính được bàn đến trong Pháp Luân Công không thể bị nhầm lẫn với Ðức hay được thay thế bởi một mình Ðức. Nó bao gồm nhiều điều hơn Ðức nữa. Nó gồm rất nhiều khía cạnh khác nhau kể cả Ðức. Ðức chỉ là một biểu thị của tâm tính, nên nếu chỉ dùng Ðức để hiểu rõ ý nghĩa của tâm tính thì chưa đủ. Tâm tính cũng bao gồm cách thức giải quyết giữa hai vấn đề "được" và "mất". "Ðược" là đạt được đúng theo đặc điểm của vũ trụ. Ðặc điểm cấu tạo nên vũ trụ là Chân-Thiện-Nhẫn. Mức độ hài hòa giữa người tu và đặc tính của vũ trụ được thể hiện qua Ðức của cá nhân đó. Mất là từ bỏ những ý nghĩ bệnh hoạn và tính tham lam, tư lợi, dâm dật, ham muốn, sát sinh, ấu đả, trộm cắp, cướp giật, lừa đảo, tật đố, v..v. Nếu tu luyện ở cao tầng, người ta cũng cần buông bỏ sự chạy theo dục vọng và lừa lọc mà đã ăn sâu trong con người một cách tự nhiên. Nói khác đi, người ta phải từ bỏ tất cả mọi ràng buộc, và phải xem nhẹ tất cả danh và lợi cá nhân.
Một con người trọn vẹn gồm có cơ thể vật chất và cá tính. Vũ trụ cũng tương tự như vậy. Thêm vào sự hiện hữu của vật chất, đồng thời cũng còn có sự hiện diện của đặc tính "Chân-Thiện-Nhẫn" nữa. Mỗi phân tử trong không khí đều có chứa đặc tính này. Trong xã hội người thường, đặc tính này được phản ảnh bởi sự kiện là làm thiện hưởng phước và làm ác gặp quả báo. Ở cao tầng, đặc tính cũng biểu hiện trạng thái của các công năng. Người tự thích nghi với các đặc tính này là người tốt; những người đi ngược lại là người xấu. Người thuận theo nó và đồng hóa vào nó là những người đắc đạo. Vì vậy, người tu cần phải có tâm tính cực kỳ cao để theo đúng đặc tính này. Chỉ đi theo đường lối này mà người ta mới có thể tu luyện lên cao tầng.
Rất dễ để làm người tốt, nhưng không quá dễ dàng để tu luyện tâm tính như vậy. Người tu phải chuẩn bị tinh thần. Người ta phải thật lòng mong muốn trước khi cố gắng sửa đổi tính ý của mình. Vì con người sống trong thế giới này mà thế giới trở nên thật phức tạp. Quý vị muốn làm điều tốt, nhưng có người không muốn quý vị làm như vậy; quý vị không muốn hại người khác, nhưng người khác lại muốn hại quý vị vì các lý do khác nhau. Một số điều này xảy ra không do sự ngẫu nhiên. Quý vị sẽ hiểu tại sao? Quý vị phải làm gì? Phải đương đầu với mọi sự xung đột trong thế giới này làm cho tâm tính của quý vị bị đem ra khảo nghiệm từng phút giây. Khi đối đầu với sự nhục nhã không tả nổi, khi quyền lợi cá nhân bị xâm phạm, khi đương đầu với tiền của và lừa đảo, khi chống chọi với quyền lực, khi điên loạn và ganh ghét nổi lên do sự xung đột, khi các sự xung đột khác nhau trong xã hội và trong phạm vi gia đình xảy ra, và khi tất cả mọi thứ đau khổ xảy đến, quý vị có vẫn còn tự cư xử theo đúng đòi hỏi gắt gao của tâm tính hay không? Dĩ nhiên, nếu quý vị có thể làm tất cả các điều này thì quý vị đã là một người giác ngộ rồi. Rốt cùng, hầu hết người tu bắt đầu từ người thường. Sự tu luyện tâm tính cũng làm từ từ và tiến lên từng chút một. Người tu cương quyết phải chuẩn bị để chịu đựng những khổ đau to tát và đương đầu với các khó khăn bằng một ý chí vững chắc, và dĩ nhiên họ sẽ đạt được Chính Qủa. Tôi hy vọng mọi người tu giữ gìn tâm tính của mình kỹ lưỡng và sẽ nâng cao công lực của mình lên trong tương lai rất gần.

2. Mất và Ðược

Cả hai giới khí công và tôn giáo đều bàn về sự mất và được. Có người xem "mất" như là "làm việc thiện", làm hành động tốt hay là giúp người trong lúc khó khăn; "được" như là "đạt được công". Ngay cả các thầy tu trong chùa cũng cho rằng người ta phải làm việc thiện. Hiểu như vậy là ý nghĩa hạn hẹp của chữ "mất". Dù sao, "mất" mà chúng ta nói đây nó mang một ý nghĩa rộng hơn nhiều và cũng là điều ở trong một phạm vi lớn rộng hơn. Những điều chúng tôi đòi hỏi quý vị phải mất đi là những sự ràng buộc của người thường và tâm thức không chịu từ bỏ những điều ràng buộc đó. Nếu quý vị có thể buông bỏ những điều mà quý vị cho là quan trọng và buông bỏ những điều quý vị nghĩ rằng mình không thể buông bỏ được, đó mới là "mất" theo ý nghĩa thật sự của nó. Giúp người và làm việc thiện chỉ là một phần của "mất".
Người thường, ai cũng muốn có chút tiếng tăm, tư lợi, một mức sống khá giả, nhiều tiện nghi và nhiều tiền. Ðây là những mục đích của người thường. Là người tu, chúng ta thì khác hẳn vì chúng ta đạt được công chứ không phải những thứ đó. Chúng ta cần phải để ý về tư lợi ít thôi, xem nhẹ nó đi, nhưng chúng tôi không yêu cầu quý vị phải hy sinh bất cứ quyền lợi vật chất nào. Chúng ta tu luyện trong xã hội người thường và cần phải sống như người thường. Chìa khóa là phải buông bỏ các sự ràng buộc của quý vị; quý vị không bị đòi hỏi phải mất điều gì. Những gì thuộc về quý vị, quý vị sẽ không mất nó, nhưng những gì không thuộc về quý vị thì quý vị cũng không có thể ôm giữ lấy nó được. Nếu quý vị chiếm giữ được nó, nhưng nó cũng sẽ được trả về cho người khác. Nếu quý vị đạt được điều gì, quý vị phải mất đi một điều gì khác. Dĩ nhiên, không thể nào làm tất cả mọi việc rất tốt đẹp ngay lập tức, cũng như không thể nào trở nên giác ngộ trong một đêm. Nhưng, bằng cách tu nay một chút mai một chút và thăng tiến từng bước, nó có thể đạt được. Tuy nhiên quý vị sẽ được nhiều hơn là mất. Với thái độ xem nhẹ tư lợi, quý vị muốn thâu lợi ít hơn để có bình yên trong tâm hồn. Quý vị có thể chịu đựng một vài mất mát nào đó về quyền lợi vật chất, nhưng quý vị sẽ được thêm Ðức và Công. Sự thật là như vậy đó. Không phải quý vị cố ý để đạt được Ðức và Công bằng cách đánh đổi danh tiếng, tiền của và tư lợi. Ðiều này phải được hiểu thấu đáo hơn nữa qua kinh nghiệm sử dụng khả năng ngộ tính của quý vị.
Có một người tu theo Ðại Ðạo có lúc nói rằng: "Tôi không muốn những gì mà người khác muốn". Tôi không có những gì người khác có được; Tuy nhiên, tôi có những gì người khác không có. Tôi muốn những gì người khác không muốn. Là người thường, người ta thật khó mà có được một lúc nào đó mà họ cảm thấy hài lòng. Họ muốn tất cả mọi thứ, chỉ trừ những hòn đá sỏi nằm lăn lóc trên mặt đất là không ai buồn nhặt lên. Nhưng người Ðạo sĩ này nói rằng: "Vậy thì tôi sẽ nhặt viên đá này". Có câu châm ngôn: "Của hiếm thì quý và Của ít thì hiếm". Ðá không có giá trị ở đây, nhưng thật là đắt giá ở không gian khác. Ðấy là ông ta nói về một nguyên lý mà người thường không biết được. Nhiều vị cao nhân đại đức không mang theo bất cứ vật chất gì. Ðối với họ, họ không có gì để từ bỏ hết.
Ði theo đường lối tu luyện là đúng nhất. Người tu thật ra là những người thông minh nhất. Những điều mà người thường tranh giành và các lợi lộc nhỏ nhoi mà họ sẽ kiếm được chỉ kéo dài một thời gian ngắn. Ngay cả nếu quý vị có được qua sự tranh giành, lượm được, hay là kiếm được một ít lợi lộc đi nữa, rồi chuyện gì sẽ xảy ra? Có câu tục ngữ trong dân gian như thế này: Khi chào đời, chúng ta không có mang cái gì xuống đây thì khi chết đi, chúng ta cũng không đem được cái gì theo chúng ta hết. Chúng ta chào đời với hai bàn tay không thì ra đi cũng sẽ với hai bàn tay không". Ngay cả khi xương cốt của quý vị sẽ bị đốt thành tro. Nó không là gì cả mặc dầu quý vị để lại một gia sản khổng lồ hay là quyền cao chức trọng, quý vị không thể mang theo gì sang thế giới bên kia hết. Nhưng công thì có thể được vì nó sản sinh trên thân của nguyên thần quý vị. Tôi nói cho quý vị biết, không dễ gì luyện được công. Nó vô cùng quý giá và thật khó khăn để đạt được nên nó không thể được trao đổi với bất cứ một số tiền khổng lồ nào. Khi công của quý vị đạt đến một trình độ thật cao, và nếu ngày nào đó quý vị quyết định không tu nữa, miễn là quý vị không làm điều xấu, công của quý vị có thể được đổi lấy quyền lợi vật chất nếu quý vị muốn. Quý vị có thể có tất cả. Nhưng, ngoại trừ những điều quý vị có thể có trong thế giới này, quý vị sẽ không có được những điều mà người tu có.
Có người, vì lợi lộc cá nhân, đã chiếm đoạt những thứ không thuộc về họ bằng các phương tiện bất chính. Họ nghĩ rằng họ có mối lợi lớn. Thật ra những quyền lợi mà họ đạt được là do sự trao đổi Ðức của họ với những người khác, nhưng họ lại không biết điều này. Ðối với người tu, nó phải bị khấu trừ từ công của họ; đối với người chưa tu, nó phải bị khấu trừ từ tuổi thọ của người đó hay là các phương diện khác. Nói tóm lại, trương mục sẽ được cân bằng. Ðây là chân lý của vũ trụ. Cũng có một số người luôn luôn bắt nạt kẻ khác hay hãm hại kẻ khác với những lời lẽ xấu xa, v..v. Khi những hành động này xảy ra, họ đang ném một mảnh Ðức của họ sang cho người nọ để đổi lấy những hành động gây thương tổn cho kẻ khác.
Có người cho rằng thật là thiệt thòi để làm một người tốt. Dưới cái nhìn của người thường thì họ bị thiệt thòi. Tuy vậy, họ có được những điều mà người thường không thể có được. Ðó là "Ðức " - một chất trắng cực kỳ quý giá. Không có Ðức thì cũng sẽ không có công; đó là một chân lý tuyệt đối. Tại sao nhiều người tu nhưng công của họ không phát triển được? chính là vì họ không tu luyện Ðức. Nhiều người nói về Ðức và sự cần thiết của Ðức, nhưng không giảng rõ nguyên tắc thật sự làm thế nào để biến đổi Ðức ra Công. Phần này được chừa lại để cho mỗi cá nhân tự tìm hiểu. Gần 10,000 quyển của Tam Tạng Kinh cũng như các nguyên lý chỉ dạy bởi Ðức Thích Ca Mâu Ni trong suốt hơn 40 năm lúc ngài còn sống, tất cả đều nói về một điều, đó là Ðức; các sách tu luyện xưa của Đạo Giáo tất cả đều bàn về Ðức; 5000 chữ trong cuốn Ðạo Ðức Kinh của Lão Tử cũng phản ảnh Ðức trong đó. Tuy vậy, có người vẫn còn chưa hiểu.
Chúng ta nói về "mất". Khi quý vị được, quý vị phải mất. Khi quý vị muốn thật sự tu luyện, quý vị sẽ gặp những khổ nạn. Thí dụ thực tế là người ta có thể trải qua một chút đau đớn về thể xác, hay là cảm thấy khó chịu chỗ này chỗ nọ. Nhưng, nó không phải là cơn bệnh. Nó cũng có thể xảy ra ngoài xã hội, trong gia đình hay nơi làm việc, tất cả đều có thể như vậy. Xung đột bỗng nhiên nổi lên vì tư lợi hay va chạm tự ái, mục đích là để nâng cao tâm tính của quý vị. Những điều này thường xảy ra bất thình lình và trở nên rất căng thẳng. Nếu quý vị gặp những trở ngại, những điều bực mình, làm quý vị mất mặt, hay là đặt quý vị vào một vị trí khó xử, vậy quý vị phải đối xử như thế nào? Nếu quý vị giữ được bình tĩnh không nổi nóng, nếu quý vị có thể làm như vậy, Tâm tính của quý vị sẽ được nâng lên sau khi trải qua thử thách này. Ðồng thời công của quý vị sẽ được phát triển thêm bằng một khối lượng tương ứng. Nếu quý vị có thể làm xong một chút, quý vị sẽ được một chút vậy. Quý vị sẽ được bao nhiêu là tùy thuộc vào sự cố gắng ít nhiều của quý vị. Phần đông, khi đang bị khảo đảo, người ta khó mà có thể nhận thức được điều này. Tuy nhiên, chúng ta phải nhận thức được nó, và không được lẫn lộn với người thường. Khi xung đột xuất hiện, chúng ta phải chọn một thái độ tốt đẹp hơn. Vì chúng ta tu luyện giữa người thường, tâm tính của chúng ta cũng sẽ bị ô nhiễm bởi người thường. Chúng ta sẽ phạm phải lỗi lầm và cũng rút kinh nghiệm từ đó. Công của quý vị không thể tăng trưởng khi chư vị thấy thoải mái và không gặp bất cứ vấn đề gì.

3. "Chân-Thiện-Nhẫn" đồng tu

Pháp môn của chúng ta tu luyện "Chân-Thiện-Nhẫn" tất cả cùng một lúc. "Chân" là nói thật, làm điều chân chính, trở về bản tính nguyên lai và sau cùng thành Chân nhân. "Thiện" là làm nảy sinh lòng từ bi thương người, làm những việc thiện và cứu người. Khả năng "Nhẫn" được đặc biệt nhấn mạnh ở đây. Chỉ với Nhẫn mà những người đức độ cao mới có thể tu luyện thành đạt được. Nhẫn là điều rất mạnh mẽ, vượt cả Chân và Thiện. Toàn bộ tiến trình tu luyện là làm cho quý vị phải nhịn nhục, giữ tâm tính của mình chứ không phải là làm theo sở thích.
Có thể nhịn nhục được khi đương đầu với các vấn đề quả thật không phải là dễ. Có người cho rằng nếu quý vị không đánh trả lại khi bị đánh hay là cãi lại khi bị vu khống, hay là nếu quý vị chịu khó nhịn nhục ngay cả khi quý vị bị mất mặt trước gia đình của quý vị, họ hàng và bạn bè của quý vị, quý vị có phải là "A-Q" không? Tôi nói rằng nếu quý vị cư xử bình thường trên mọi phương diện và sự khôn ngoan của quý vị không kém những người khác, nhưng quý vị chỉ xem nhẹ về phương diện lợi lộc cá nhân, không ai sẽ cho là quý vị ngu ngốc hết. Có thể nhẫn nhịn được không phải là yếu điểm, hay là "A-Q". Nó là biểu hiện của ý chí kiên cường và khả năng tự kiềm chế. Xưa ở Trung hoa có Hàn Tín, có lúc phải chịu nhục mà chui qua háng người ta. Ðó là nhẫn nhịn trong đại đạo. Có một câu tục ngữ: "Khi một người thường bị làm nhục, họ sẽ tuốt kiếm ra giao đấu". Họ sẽ vu khống và mạ lỵ đối thủ, và ném các quả đấm về phía đối thủ. Thật không dễ gì sống trong thế giới này. Có người sống theo phàm ngã của mình. Nó không đáng chút nào hết và cũng sẽ nhàm chán. Có câu tục ngữ Trung Hoa: Lui về sau một bước, quý vị sẽ khám phá ra một bầu trời biển bao la. Lui lại một bước khi quý vị phải đương đầu với các vấn đề nan giải. Khi làm được như vậy, quý vị sẽ thấy một tình trạng hoàn toàn khác hẳn.
Là người tu, quý vị không được chỉ tỏ ra nhẫn nhục đối với những người đang xung đột với quý vị và với những người làm cho quý vị khó xử, nhưng quý vị còn phải tỏ thái độ tốt hơn đối với họ ngay cả cảm ơn họ nữa. Nếu họ không dự phần vào cuộc xung đột với quý vị thì làm sao quý vị có thể nâng cao tâm tính của mình lên được? Làm sao chất đen được chuyển hóa thành chất trắng trong khi quý vị đang chịu đau khổ? Làm sao quý vị có thể phát triển công được? Nó rất là khó cho quý vị khi đang bị khảo đảo. Nhưng người ta phải tự kiềm chế mình ngay lúc đó vì công lực càng tăng thì khổ nạn cũng liên tục trở thành mạnh hơn nữa. Tất cả đều tùy thuộc vào nếu quý vị có thể nâng cao tâm tính của mình lên hay không? Lúc đầu, nó có thể làm cho quý vị bối rối, làm cho quý vị nóng giận không kiềm chế nổi, nóng giận đến nỗi ruột gan quý vị đau thắt lên. Nhưng nếu quý vị không mất bình tĩnh và có thể tha thứ được, đó là điều tốt. Quý vị đã bắt đầu nhịn nhục, cố ý nhịn nhục. Sau đó quý vị sẽ dần dần liên tục nâng cao tâm tính, và sẽ thật sự xem nhẹ những thứ này. Tới lúc đó nó sẽ là một sự tiến bộ còn lớn hơn nữa. Người thường gặp phải đụng chạm gì thì vấn đề càng trở nên nghiêm trọng hơn nữa vì họ sống với bản ngã và không có thể dung tha bất cứ điều gì. Khi bị chọc giận, họ dám làm bất cứ điều gì. Nhưng là người tu, những thứ mà người thường xem trọng dường như trở nên rất, rất là tầm thường đối với quý vị, quá tầm thường, vì mục đích của quý vị vượt khỏi mục đích dài hạn của người thường và còn rất lâu họ mới đạt tới. Quý vị sẽ sống lâu cũng như vũ trụ này. Khi quý vị suy nghĩ lại về những điều này, nếu quý vị có nó cũng được; và nếu quý vị không có nó cũng được. Khi quý vị suy nghĩ rộng rãi hơn, quý vị có thể vượt qua tất cả những điều này.

4. Bỏ tâm tật đố (ganh tỵ)

Tâm tật đố là một trở ngại lớn cho sự tu luyện và có ảnh hưởng quan trọng đối với người tu. Nó sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến công lực của người tu, làm hại các bạn đồng tu và cản trở một cách nghiêm trọng sự tu luyện của chúng ta về cao tầng. Là người tu, nó phải được tiêu diệt một trăm phần trăm. Có người tu đến trình độ nào đó, tuy nhiên, họ chưa buông bỏ tâm ganh tỵ được. Hơn nữa, nó càng khó buông bỏ thì càng dễ dàng để cho quý vị trở nên mạnh hơn. Loại lực tương phản này làm cho người khác nâng cao phần tâm tính yếu kém của họ. Tại sao tâm tật đố được chọn ra để bàn cãi nơi đây? Vì tâm tật đố được biểu lộ mạnh mẽ nhất và nổi bật nhất giữa những người Hoa, chiếm phần lớn trong đầu của họ. Tuy nhiên, nhiều người không nhận thức được điều này. Ðược gọi là tật đố đông phương hay là tật đố châu Á, tâm tật đố là một đặc điểm của người đông phương. Người Trung Hoa rất là hướng nội, rất là bảo thủ và không cởi mở, điều đó rất dễ dẫn tới tâm tật đố. Mọi thứ đều có hai mặt. Theo đó, người sống nội tâm cũng có ưu điểm cũng như khuyết điểm. Người Tây phương tương đối hướng ngoại hơn. Chẳng hạn như, nếu một đứa trẻ được 100 điểm ở trường, nó sẽ rất sung sướng la lớn lên trên đường về nhà, "Con được 100 điểm!". Láng giềng sẽ mở cửa ra mừng nó: "Tom, chúc mừng cháu!". Tất cả mọi người đều mừng cho nó. Nếu điều này xảy ra ở Trung Hoa, hãy suy nghĩ điều này, người ta sẽ cảm thấy không vui khi nghe điều đó: "Nó được 100 điểm, có gì lạ đâu chứ? Có gì để khoe khoang đâu?" Phản ứng tuyệt nhiên khác hẵn khi một người có một tâm tật đố.
Người tật đố muốn hơn mọi người và không bằng lòng để ai hơn mình. Khi họ thấy ai có khả năng hơn họ, họ bắt đầu cảm thấy khó chịu, không nhìn nhận nó, và không chấp nhận sự thật. Họ muốn tăng lương cùng lúc với những người khác, muốn có cùng số tiền thưởng, và đổ lỗi cho mọi người khi có điều gì không đúng. Họ sẽ giận xanh mặt và ghen ghét khi thấy người khác kiếm nhiều tiền hơn họ. Tóm lại, chừng nào người khác còn làm khá hơn họ là họ sẽ không chấp nhận được. Có người lo sợ để nhận tiền thưởng khi họ hoàn tất các công trình nghiên cứu khoa học. Họ lo sợ những người khác sẽ trở nên ganh ghét; những người nhận được giải thưởng thì không dám hé môi tiết lộ, vì họ sợ ganh tỵ và dèm pha. Có thầy khí công không thích khi thấy những thầy khí công khác giảng dạy nên họ sẽ tìm cách quấy phá. Ðây là một vấn đề về tâm tính. Một nhóm đang cùng nhau tập luyện. Có người trong nhóm phát triển được các công năng sau khi tập luyện được một thời gian ngắn. Vì vậy, có người sẽ cho rằng: "Nó mà làm được gì? Tôi có nhiều năm tu luyện và một đống bằng cấp. Làm sao nó có thể phát triển công năng trước tôi cho được?" Ðó là tâm tật đố đã nổi lên. Tu luyện chú trọng vào bên trong. Người tu phải tự tu và tìm ra nguyên nhân của mọi vấn đề trong ta. Quý vị phải cố gắng cải tiến những lĩnh vực còn yếu kém và làm việc tận tâm hơn nữa. Nếu quý vị thử tìm nguyên nhân từ kẻ khác, sau khi họ hoàn tất sự tu luyện và đi lên rồi, quý vị sẽ là người bị bỏ xót lại đó. Phải chăng quý vị phung phí tất cả thời giờ của mình? Tu luyện là tu luyện chính mình.
Tâm tật đố cũng gây tai hại cho các bạn đồng tu, chẳng hạn như nói xấu làm cho người khác khó mà định được; khi một người có công năng, ngoài ganh ghét ra, họ có thể sử dụng chúng để gây trở ngại cho những bạn đồng tu của họ. Ví dụ, một người ngồi đó đang tập luyện tương đối rất tốt. Vì họ có công, họ ngồi đó như là một tảng núi. Sau đó, có hai vị bay tới gần, một người lúc trước là một tăng sĩ, nhưng vì tật đố nên chưa giác ngộ. Khi họ đến gần người đang tu thiền kia, một người nói:"Người đó đang tu luyện nơi đây. Chúng ta hãy đi tránh qua một bên" Nhưng người khác đáp lại: "Tôi rất mạnh, trong quá khứ, tôi đã cắt lìa một góc của núi Thái Sơn" Ngay sau đó, hắn lập tức đánh vào người đang ngồi tu. Tuy nhiên, khi hắn vừa dơ tay lên, hắn ta không thể nào để tay xuống được. Vì người tu đang tu theo chính đạo và có tấm chắn bảo vệ, hắn ta không thể nào đánh trúng người tu đó được. Khi hắn muốn chạm tới người tu theo chính đạo, nó trở thành một vấn đề nghiêm trọng. Hắn ta sẽ bị trừng phạt. Người tật đố sẽ làm hại mình và hại người khác.

5. Buông bỏ mọi ràng buộc

Bị ràng buộc (hay chấp trước) có nghĩa là khi người tu cố đeo đuổi một điều gì một cách thái quá hay là mục đích gì quá trớn, và không thể nào từ bỏ nó hay là ngay cả quá cứng đầu không muốn nghe bất cứ lời khuyên can nào. Có người chạy theo các công năng trong thế giới này và nhất định sẽ ảnh hưởng đến sự tu luyện của họ lên cao tầng. Tình cảm càng dồi dào thì càng khó mà từ bỏ và cảm giác càng bị mất quân bình và càng không ổn định được. Sau đó, họ sẽ cảm thấy họ không có gì cả và bắt đầu ngay cả nghi ngờ những điều mà họ đang học hỏi. Sự ràng buộc khởi lên từ sự ham muốn của con người. Bản tính của những sự ràng buộc này là vì mục tiêu hay là mục đích của nó rõ ràng là bị giới hạn, nó tương đối rõ ràng và dễ hiểu như vậy, và thường là người đó chính họ có lẽ cũng không nhận ra nó. Người thường có rất nhiều ràng buộc. Người ta có thể sử dụng bất cứ phương tiện cần thiết nào để theo đuổi điều gì đó và đạt được nó. Các ràng buộc của người tu được biểu lộ dưới một hình thức khác, chẳng hạn như theo đuổi một công năng nào đó, muốn thấy một linh ảnh nào đó, ám ảnh bởi một buổi biểu diễn nào đó, v..v. Là người tu, không kể là quý vị theo đuổi điều gì, nó đều không đúng. Ðiều này phải bị loại bỏ. Đạo Gia nói về chữ vô. Phật Gia bàn về chữ không và bước vào ngưỡng cửa hư không. Cuối cùng chúng ta muốn đạt được trạng thái vô vi và hư không, buông bỏ tất cả mọi sự ràng buộc. Ðiều gì mà quý vị không thể buông bỏ được, phải bỏ chúng đi, chẳng hạn như việc theo đuổi các công năng. Nếu quý vị theo đuổi nó, đó có nghĩa là quý vị muốn sử dụng nó. Trong thực tế, nó đi ngược lại với bản chất của vũ trụ của chúng ta. Nó thật sự vẫn còn là một vấn đề của tâm tính. Nếu quý vị muốn có nó, tức là quý vị thật sự muốn khoe nó và biểu diễn trước những người khác. Ðó không phải là điều để biểu diễn cho người khác xem. Ngay cả mục đích sử dụng của quý vị rất trong sạch, chỉ muốn sử dụng nó để làm việc tốt, việc tốt mà quý vị làm có lẽ trở nên không tốt cho lắm. Nó không nhất thiết là một ý nghĩ tốt khi sử dụng các phương tiện siêu phàm để giải quyết các vấn đề của người thường. Sau khi người ta nghe tôi giảng là có 70% học viên trong lớp học được mở Thiên mục, họ bắt đầu tự hỏi: "Tại sao tôi không có cảm giác gì cả?" Khi họ trở về nhà và tập luyện, họ tập trung tư tưởng vào Thiên mục đến nỗi họ bị nhức đầu. Cuối cùng họ cũng không trông thấy gì cả. Ðây là một sự ràng buộc. Các cá nhân đều có thể chất khác nhau và căn cơ khác nhau. Không thể nào mà tất cả những người đó được nhìn thấy bằng Thiên mục cùng một lúc cho được, cũng không thể nào mở Thiên mục của họ ở cùng một cấp bậc. Có người có thể thấy được và có người không thể thấy được. Tất cả đó đều là bình thường.
Sự ràng buộc có thể cản trở sự phát triển công lực của người tu, làm nó chậm lại và không được vững vàng. Trong những trường hợp nghiêm trọng hơn, nó có thể ngay cả đưa đến hậu quả là người tu đi theo đường tà. Nhất là một số công năng có thể được sử dụng bởi người có tâm tính kém cỏi để làm điều xằng bậy. Có những trường hợp mà các hành động xấu được làm do việc sử dụng các công năng bởi những người có tâm tính chưa vững chắc. Một nơi nọ có một nam sinh viên phát triển được công năng kiểm soát tư tưởng. Với quyền năng này, anh ta có thể dùng ý nghĩ của mình để kiểm soát tư tưởng và hạnh kiểm kẻ khác. Và anh ta sử dụng nó để làm điều xấu. Khi một người đang tập luyện, họ có thể trông thấy vài hình ảnh xuất hiện. Họ luôn luôn muốn nhìn thấy rõ hơn và hiểu thấu nó. Ðây cũng là một hình thức của sự ràng buộc. Có người rất đam mê một trò chơi giải trí nào đó; họ không thể từ bỏ nó được. Ðó cũng là một hình thức của sự ràng buộc. Vì những khác biệt về căn cơ và mục đích, có người tu luyện để đạt đến trình độ cao nhất; nhưng cũng có người chỉ muốn được điều gì đó. Nghĩ như vậy chắc chắn sẽ giới hạn mục đích của sự tu luyện. Nếu không buông bỏ loại ràng buộc này thì công sẽ không phát triển được cho dù có tập luyện. Vì lẽ đó, người tu phải xem nhẹ quyền lợi vật chất, không đeo đuổi theo bất cứ điều gì, và để mọi việc xảy ra theo tự nhiên. Như vậy, sự biểu lộ của ràng buộc sẽ bị hủy diệt. Ðiều này tùy thuộc vào tâm tính của người tu. Nếu tâm tính không được nâng lên một cách vững chắc thì sự giác ngộ sẽ không thể đạt được với bất cứ hình thức ràng buộc nào.

6. Nghiệp Lực

(1) Nguồn gốc của nghiệp

Nghiệp là một thứ chất đen tương phản với Ðức. Trong Phật giáo, nó được gọi là ác nghiệp; ở đây, chúng ta chỉ gọi nó là "nghiệp". Vì vậy làm điều xấu được gọi là "tạo nghiệp". Nghiệp được tạo ra vì người ta làm điều xấu trong kiếp này hay trong tiền kiếp. Thí dụ như giết người, bắt nạt, ấu đả với người khác vì tranh giành tư lợi, nói xấu sau lưng người khác, hay là không thân thiện với kẻ khác,v..v., tất cả đều có thể tạo ra nghiệp. Thêm vào đó, có nghiệp truyền lại từ các đời trước, từ người thân trong gia đình hay bạn thân. Khi một người ném những cú đấm vào mặt người khác, anh ta cùng đồng thời ném một mảnh chất trắng cho người đó, và khoảng trống trên cơ thể của anh ta được lấp đầy bởi chất đen. Giết người là một việc làm tồi tệ nhất. Nó là việc làm sai trái và sẽ tạo nghiệp thật nặng nề. Nghiệp là yếu tố chính làm cho người ta bị bệnh. Dĩ nhiên, nó cũng không luôn luôn thể hiện dưới hình thức của bệnh tật; nó có thể biểu lộ dưới hình thức như là gặp phải những vấn đề rắc rối, v..v. Tất cả nó là nghiệp đang hoành hành. Vì vậy, người tu không được làm điều xấu. Bất cứ hành vi sai trái nào cũng sẽ dẫn đến kết quả xấu, ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc tu luyện của quý vị.
Có người khuyến khích thu khí của cây cối. Khi họ dạy các động tác, họ cũng dạy cách để thu khí từ cây cối; cây nào có khí tốt hơn và màu khí của nhiều loại cây khác nhau cũng được bàn đến và được để ý rất nhiệt tình. Trong một công viên nọ ở vùng đông bắc, có người tập một loại khí công lạ mà tôi không biết loại gì. Họ lăn vòng trên mặt đất. Sau khi họ đứng dậy, họ đi vòng chung quanh các cây thông và thu khí của các cây thông này. Trong vòng nửa năm, cả khu rừng thông nhỏ này bị khô héo và trở nên vàng úa. Ðây là hành động tạo nghiệp! Nó cũng là sát sinh nữa! Dưới khía cạnh bảo trì sự quân bình trong thiên nhiên và làm cho khu vực được xanh tươi, hay là dưới khía cạnh ở cao tầng, sự thu khí của cây cối cũng đều không đúng. Vũ trụ rộng lớn và vô biên, Khí ở cùng khắp mọi nơi sẵn sàng cho quý vị thu hút. Hãy đưa tay ra và thu hút nó. Tại sao lạm dụng các cây cối? Là người tu, tâm độ lượng và lòng từ bi của quý vị ở đâu?
Mọi thứ đều có trí thông minh. Khoa học hiện nay công nhận rằng ngoại trừ đời sống, cây cối cũng có sự thông minh, ý nghĩ, cảm giác và ngay cả các khả năng cảm nhận. Khi Thiên mục của quý vị đạt tới trình độ "Pháp Nhãn", quý vị sẽ khám phá ra rằng thế giới là một hình ảnh hoàn toàn khác hẳn. Khi quý vị đi ra ngoài, các viên đá, các bức tường và ngay cả cây cối cũng sẽ trò chuyện với quý vị. Với mỗi đồ vật đều có một linh thể tương ứng, tức là một sự sống đã được cho vào trong đó khi món đồ được tạo thành. Người trên trái đất chia vật chất ra làm chất hữu cơ và vô cơ. Người tu trong chùa rất là khó chịu khi họ làm bể một cái chén vì vừa lúc nó bị bể thì linh vật trong đó cũng được phóng thích. Nó chưa hoàn tất hành trình của cuộc đời và vì vậy không biết phải đi về đâu. Vì vậy nó sẽ ghét cay ghét đắng người đã hủy hoại nó. Nó càng nóng giận bao nhiêu thì người đó càng tạo nhiều nghiệp bấy nhiêu. Có "thầy khí công" cũng đi săn bắn. Lòng thương người và lòng từ bi của họ đi đâu rồi? Phật Gia và Đạo Gia không làm điều gì ngược lại với các luật của vũ trụ. Khi ông ta làm những điều này, nó là hành động sát sinh.
Có người cho rằng họ đã tạo rất nhiều nghiệp trong quá khứ, thí dụ như giết gà hay cá, cũng như câu cá, v..v. Ðiều này phải chăng là họ không thể nào tu luyện được? Không, nó không có nghĩa như vậy. Lúc trước quý vị không biết được hậu quả, vì vậy nó sẽ không tạo quá nhiều nghiệp. Chỉ không được tái phạm nữa trong tương lai, và như vậy là tốt rồi. Nếu quý vị tái phạm, quý vị đang vi phạm các nguyên lý này một cách ý thức, và điều đó sẽ là một vấn đề. Có người mắc phải loại nghiệp này. Sự hiện diện của quý vị trong lớp học của chúng tôi có nghĩa là quý vị có duyên tiền định; quý vị có thể tu tiến lên được. Chúng ta có quyền đập ruồi hay muỗi khi chúng bay vào trong nhà không? Nếu quý vị đập chúng chết, nó không bị xem là điều sai trái. Nếu quý vị không thể đuổi chúng ra được thì giết chúng cũng không có vấn đề gì. Khi đến thời điểm cái gì đó phải chết, để cho nó chết tự nhiên. Lúc Ðức Thích Ca Mâu Ni còn sống, một lần ngài muốn đi tắm và bảo người đệ tử lau chùi bồn tắm. Người đệ tử thấy có nhiều côn trùng trong bồn tắm, vì vậy nên quay trở lại và hỏi ngài nên phải làm gì. Ðức Thích Ca Mâu Ni trả lời rằng: "Ta muốn con đi rửa sạch bồn tắm cho ta." Người đệ tử hiểu rõ. Anh ta đi trở lại và chùi rửa bồn tắm. Quý vị không được xem một số vấn đề quá nghiêm trọng. Chúng tôi không muốn quý vị trở thành một người cẩn thận quá trớn. Trong một môi trường phức tạp, tôi không nghĩ là đúng nếu một lúc nào đó thần kinh của quý vị quá căng thẳng và quý vị sợ không dám làm điều gì đó vì cho rằng nó không đúng. Ðiều này là một hình thức của sự ràng buộc; lo sợ chính nó là một sự ràng buộc.
Chúng ta phải có lòng nhân đức và tâm từ bi khi đối phó với bất cứ điều gì. Theo đó nó không dễ gì tạo nên vấn đề. Xem nhẹ quyền lợi cá nhân và hãy có lòng thương người, và tâm từ bi của quý vị sẽ tránh cho quý vị khỏi làm điều sai trái. Tin hay không, quý vị sẽ khám phá ra rằng nếu quý vị luôn luôn giữ một thái độ ác cảm và luôn luôn muốn chiến đấu và chống chọi, quý vị sẽ ngay cả biến những điều tốt thành ra xấu. Tôi thường thấy có người, ngay khi họ làm đúng, cũng không hòa nhã với kẻ khác. Khi anh ta làm đúng, anh ta khư khư giữ lấy những điều như là muốn trừng phạt kẻ khác. Tương tự như vậy, chúng ta không được làm lớn chuyện nếu điều gì đó làm phật lòng chúng ta. Nhiều khi những điều quý vị không thích không nhất thiết là sai. Là người tu, khi quý vị liên tục nâng cấp của mình lên, mỗi câu quý vị nói ra mang theo năng lực. Quý vị có thể kiểm soát người thường, vì vậy quý vị không được phát ngôn bừa bãi. Nhất là khi quý vị không thể nhìn thấy sự thật của vấn đề và các liên hệ nghiệp lực, nó dễ làm cho quý vị phạm lỗi và tạo nghiệp.

(2) Tiêu trừ nghiệp

Các nguyên lý trong thế giới này cũng giống như ở trên thiên thượng. Dĩ nhiên quý vị phải trả hết những gì quý vị nợ kẻ khác. Ngay cả đối với người thường, họ cũng phải trả lại những gì họ thiếu kẻ khác. Qua một kiếp người, tất cả các khổ cực và vấn đề họ gặp phải là kết quả của nghiệp. Người đó phải trả lại. Ðối với người tu chân chính, đường đời sẽ thay đổi. Một lối đi mới thích hợp cho việc tu luyện của quý vị sẽ được xếp đặt. Một số nghiệp của quý vị sẽ được thầy của quý vị dẹp đi và những gì còn lại sẽ được dùng để nâng cao tâm tính của quý vị. Qua sự tập luyện và tu luyện về tâm tính, quý vị hoán đổi nó và trả dứt tất cả. Kể từ nay, các vấn đề quý vị gặp phải không phải xảy ra ngẫu nhiên, vì vậy xin hãy chuẩn bị tinh thần. Bằng cách chịu đựng một số khổ nạn, quý vị sẽ buông bỏ tất cả những điều mà người thường không thể nào bỏ được. Quý vị sẽ gặp phải nhiều vấn đề lộn xộn. Nhiều vấn đề sẽ xuất hiện từ mọi khía cạnh trong gia đình cũng như ngoài xã hội; hay là thình lình quý vị sẽ gặp một tai họa; hơn thế nữa, quý vị có thể sẽ bị khiển trách do lỗi của kẻ khác, vân vân và vân vân. Người tu không nhất thiết phải bị bệnh, nhưng thường xuyên, họ có thể bị một cơn bệnh rất nặng. Nó có thể hành hạ rất dữ dội, và họ ráng chịu đựng đến khi không thể chịu được nữa. Ngay cả khám nghiệm trong nhà thương cũng không thể đoán được bệnh gì. Nhưng sau đó vì lý do nào đó không biết, nó được hết bệnh mà không cần chữa trị gì cả. Thực ra, món nợ mà quý vị thiếu phải được trả bằng cách này. Có lẽ ngày nào đó, không một lý do gì cả, người phối ngẫu của quý vị bắt đầu gây gổ với quý vị và không còn bình tĩnh nữa. Ngay cả các va chạm rất nhỏ có thể dẫn đến cuộc cãi vã lớn. Sau đó người bạn đời của quý vị cũng sẽ cảm thấy rất mơ hồ về việc mất bình tĩnh của mình. Là người tu, quý vị phải hiểu rõ ràng tại sao những loại va chạm như vậy xảy ra. Nó là vì "điều đó" đã đến. Và nó đang đòi quý vị phải trả nghiệp. Lúc đó quý vị phải tự kiềm chế mình, giữ gìn tâm tính của quý vị và giải quyết các vấn đề. Hãy biết ơn và cám ơn họ vì họ đang giúp cho quý vị trả nghiệp.
Sau khi ngồi thiền một lúc lâu, đôi chân sẽ bắt đầu đau nhức, đôi khi đau kinh khủng. Người mở thiên mục ở cấp cao có thể thấy rằng: "Khi họ đang chịu cơn đau lớn, có một khối chất đen lớn ở bên trong cũng như ở bên ngoài cơ thể rơi xuống và bị hủy diệt. Cơn đau gặp phải khi ngồi thiền có từng cơn và đau nhói tim. Có người hiểu được và quyết định không bỏ chân đang bắt chéo ra. Vì vậy, chất đen sẽ bị tiêu trừ và chuyển hóa thành chất trắng, và đến phiên nó sẽ biến thành công. Thật không thể nào mà người tu trả dứt tất cả nghiệp của mình bằng cách ngồi thiền và tập các động tác. Nó cũng đòi hỏi phải nâng cao tâm tính và bản chất giác ngộ, và trải qua các khổ nạn. Ðiều quan trọng nhất là chúng ta phải có lòng từ bi. Lòng từ bi được thể hiện rất nhanh chóng trong Pháp Luân Công. Khi nhiều người ngồi thiền, nước mắt bắt đầu tuôn ra không gì lý do gì hết. Bất cứ điều gì họ nghĩ tới, họ cảm thấy thương hại. Khi họ nhìn bất cứ ai, họ thấy người đó đang đau khổ. Nó thật ra là tâm từ bi của quý vị đã thể hiện. Bản chất của quý vị, con người thật của quý vị bắt đầu nối liền với bản chất "Chân-Thiện-Nhẫn" của vũ trụ. Khi lòng thương người đã được biểu lộ ra ngoài, quý vị sẽ làm nhiều việc vì lòng tốt của mình. Cả bên ngoài lẫn bên trong, quý vị trông rất tử tế. Tới điểm này, không ai có thể bắt nạt quý vị được nữa. Nếu có người bắt nạt quý vị lúc này, tâm từ bi của quý vị sẽ hoạt động, và quý vị sẽ không đánh trả lại. Sức mạnh này làm cho quý vị khác với những người thường.
Khi quý vị gặp một khổ nạn nào đó, tâm từ bi đó sẽ giúp quý vị vượt qua trở ngại đó. Cùng lúc đó, Pháp Thân của tôi sẽ lo lắng cho quý vị và che chở mạng sống cho quý vị, nhưng quý vị phải vượt qua khổ nạn. Thí dụ như khi tôi đang thuyết giảng ở Thái Nguyên, có một cặp vợ chồng già đến dự lớp học. Họ đã hối hả băng qua đường. Khi đến giữa đường thì có một chiếc xe chạy tới. Nó đang chạy thật nhanh và tức thời đụng bà lão té xuống và còn lôi bả theo độ hơn mười mét. Sau đó bà ta bị rớt lại ở giữa đường. Chiếc xe chạy thêm khoảng 20 mét nữa mới ngừng được. Người tài xế bước ra khỏi xe và nói những lời hằn học, và các hành khách trên xe cũng thốt ra những lời lẽ khó nghe. Bà lão không nói gì cả. Ngay lúc đó bà ta nhớ lại những gì tôi giảng. Sau khi đứng dậy, bà ta nói "Không sao, không sao, cũng không bị gì." Xong bà ta cùng chồng đi vào hội trường. Nếu ngay lúc đó bà ta nói rằng "Úi cha, nó đau ở đây quá; nó cũng đau chỗ kia nữa. Ông phải chở tôi đi nhà thương" Nó sẽ trở nên đau đớn thật sự. Nhưng bà ta không làm như vậy. Bà ta đã nói với tôi rằng "Thưa Thầy, tôi biết tất cả những điều đó là gì. Nó đang giúp cho tôi để trả nghiệp!" Một khối nghiệp lớn và khổ nạn đã được tiêu trừ. Quý vị có thể tưởng tượng được là bà lão đó có tâm tính và bản chất giác ngộ thật cao. Với tuổi đời khá cao như vậy và chiếc xe lao tới mau như vậy, bà ta bị té xuống và lôi đi một khoảng xa như vậy và cuối cùng là rớt mạnh xuống mặt đường. Tuy vậy bà ta đã đứng lên với một tâm ngay chính.
Ðôi khi lúc khổ nạn xảy đến dường như thật to lớn, thật áp đảo đến nỗi như không có lối thoát. Có lẽ nó vây quanh chúng ta trong vài ngày. Thình lình một giải pháp xuất hiện và sự việc bắt đầu rẽ vào một khúc quanh lớn. Thật ra vì chúng ta nâng cao tâm tính của mình lên và vấn nạn đã biến mất một cách tự nhiên.
Ðể nâng cao cảnh giới tư tưởng người ta phải trải qua tất cả mọi thử thách được an bài bởi những khổ nạn trong thế gian. Trong tiến trình này nếu tâm tính của quý vị thật sự thăng tiến và ổn định, nghiệp cũng sẽ được tiêu trừ; khổ nạn sẽ được vượt qua và công cũng sẽ được phát triển. Nếu trong lúc tâm tính bị thử thách và quý vị không giữ vững tâm tính của quý vị và cư xử không đúng đắn, cũng đừng thất vọng. Hãy hăng hái góp nhặt những gì quý vị học được từ bài học này, tìm ra chỗ nào quý vị còn thiếu sót và nỗ lực hơn để thuận theo "Chân-Thiện-Nhẫn". Vấn đề kế tiếp để thử thách tâm tính của quý vị có thể sẽ xảy ra trong một thời gian ngắn. Vì công lực đang phát triển, thử thách kế tiếp có thể đến còn dữ dội hơn nữa và cũng thật là thình lình. Vì quý vị vượt qua mọi trở ngại, công lực của quý vị sẽ tăng trưởng thêm một chút. Nếu quý vị không thể vượt qua trở ngại, công của quý vị sẽ không phát triển được. Thử thách nhỏ dẫn tới một tiến bộ nhỏ; thử thách lớn dẫn tới tiến bộ lớn. Tôi mong mỗi người tu chuẩn bị để chịu đựng nỗi đau khổ lớn lao và có đủ can đảm và nghị lực để chấp nhận những gian khổ. Quý vị sẽ không đạt được công thật sự mà không có trao đổi. Không có nguyên lý nào mà cho quý vị đạt được công một cách thoải mái không phải chịu đau khổ hay mất mát gì cả. Nếu tâm tính không thay đổi cho được tốt hơn và quý vị vẫn còn mang nhiều sự ràng buộc cá nhân, quý vị sẽ không bao giờ tu luyện thành người giác ngộ được!

7. Ma quỷ quấy nhiễu

Ma quỷ quấy nhiễu là nói về các hiện tượng hay là hình ảnh xuất hiện trong tiến trình tu luyện, nó cố ý ngăn cản không cho người tu tiến lên cao tầng. Nói cách khác đó là ma quỷ đến để đòi nợ.
Khi tu đến cao tầng, vấn đề ma quỷ quấy nhiễu nhất định sẽ xảy ra. Không thể nào một người trong suốt cuộc đời của họ và cuộc đời của các tổ tiên của họ mà không phạm một vài điều lầm lỗi mà được gọi là nghiệp. Căn cơ của một người tốt hay không được xác định bởi số lượng nghiệp mà người đó mang theo. Ngay cả nếu họ là một người rất tốt, họ cũng không thể nào không mang theo nghiệp. Vì quý vị không tu, quý vị không thể chứng nghiệm nó được. Nếu chỉ để trị bệnh và giữ gìn sức khỏe, ma quỷ sẽ không để ý tới. Tuy nhiên một khi quý vị bắt đầu tu luyện lên cao tầng, chúng nó sẽ dòm ngó quý vị. Chúng nó sẽ quấy phá quý vị bằng nhiều cách khác nhau, mục đích nhằm ngăn cản không cho quý vị tu lên cao và làm cho quý vị thất bại trong việc tu luyện. Ma quỷ hiện ra với nhiều cách khác nhau. Một số trong chúng nó hiện ra dưới dạng những hiện tượng trong đời sống hàng ngày, trong khi những đứa khác ngăn cản bằng cách sử dụng những phù phép của các cõi không gian khác. Chúng nó điều khiển các sự vật để ngăn cản quý vị mỗi khi quý vị muốn ngồi xuống, làm cho quý vị không thể nào định được, và như vậy cũng không thể nào tu lên cao được. Ðôi khi quý vị vừa ngồi xuống định thiền, quý vị bắt đầu cảm thấy buồn ngủ hay là có tất cả mọi ý nghĩ luẩn quẩn trong đầu, và trở nên không có thể bước vào trạng thái tu luyện được. Ðôi khi quý vị vừa bắt đầu tập luyện thì quang cảnh chung quanh quý vị vốn đang yên tĩnh bỗng nhiên trở nên ồn ào với những bước chân người, tiếng đóng cửa rầm rầm, xe hú còi inh ỏi, điện thoại reo vang và còn nhiều hình thức quấy phá nữa, làm cho quý vị không thể nào trở nên thanh tịnh cho được.
Một loại ma quỷ khác nữa đó là quỷ dâm dục. Trong khi người tu đang thiền hay là khi đang nằm mơ, một người đàn bà đẹp hay là một người đàn ông hào hoa có thể xuất hiện trước người tu nam hay là nữ. Chúng nó sẽ dụ dỗ quý vị, cám dỗ quý vị, làm các cử chỉ khêu gợi và lôi cuốn sự ham muốn của quý vị vào tình dục. Nếu quý vị không thể vượt qua được ngay lần đầu, nó sẽ leo thang dần dần và tiếp tục cám dỗ quý vị cho đến khi quý vị từ bỏ ý định muốn tu luyện lên cao tầng. Ðây là một thử thách rất khó để vượt qua, và một số người tu đã thất bại vì nó. Tôi hy vọng quý vị chuẩn bị tinh thần để đối phó với nó. Nếu người ta không giữ tâm tính của mình tốt đủ và đã thất bại một lần thì họ phải thật tâm học bài học rút ra từ đó. Nó sẽ tới và quấy phá trở lại nhiều lần nữa cho đến khi quý vị thật sự duy trì được tâm tính của mình và hoàn toàn buông bỏ sự ham muốn đó. Ðây là một trở ngại lớn cần phải vượt qua. Nếu không, quý vị không có thể đạt đạo, và không thể hoàn tất sự tu luyện một cách viên mãn.
Một loại ma quỷ khác nữa thể hiện trong lúc tu luyện hay trong giấc mơ. Có người thình lình thấy nhiều khuôn mặt rất đáng sợ, nó rất là xấu và rất linh động, hay là hình người đang cầm dao giết người. Tuy vậy, chúng nó chỉ có thể làm cho người ta sợ. Nếu nó thật sự đâm tới, nó sẽ không có thể chạm tới người tu vì thầy đã gắn tấm chắn bảo vệ chung quanh cơ thể người tu giữ cho không bị ám hại. Chúng nó làm cho người ta sợ để họ sẽ bỏ tu. Những điều này chỉ xuất hiện ở một trình độ hay trong một khoảng thời gian nào đó, và rất nhanh chóng, chúng nó sẽ qua đi trong vài ngày, một tuần, hay là vài tuần. Tất cả đều tùy thuộc vào tâm tính của quý vị cao đến mức nào và làm sao quý vị đối phó với vấn đề này.

8. Căn cơ và ngộ tính

Căn cơ liên hệ đến chất trắng mà người ta mang theo khi chào đời. Thật ra nó chính là Ðức, một chất liệu hữu hình. Quý vị mang theo càng nhiều chất liệu này thì căn cơ của quý vị càng tốt. Người có căn cơ tốt quay trở về bản chất chân thật và trở nên giác ngộ dễ dàng hơn, vì họ không có chướng ngại gì trong ý nghĩ của họ. Một khi họ nghe về nghiên cứu khí công, hay về những điều liên quan đến sự tu luyện, họ lập tức trở nên thích thú và muốn theo học. Họ có thể tiếp xúc với vũ trụ. Giống hệt như Lão Tử đã nói "Khi người thượng sỹ nghe Ðạo, anh ta sẽ chuyên cần tập luyện. Khi người trung sỹ nghe Ðạo, anh ta sẽ tập luyện không đều. Khi người hạ sỹ nghe Ðạo, anh sẽ sẽ cười to lên. Nếu anh ta không cười to lên thì nó không phải là Ðạo". Người có thể dễ dàng trở về bản chất chân thật và trở nên giác ngộ là người thức giác. Trái lại, đối với người có nhiều chất đen và căn cơ thấp, có một hàng rào bao chung quanh cơ thể của họ, làm cho họ không thể tiếp nhận những điều tốt. Nếu được tiếp xúc với những điều tốt, nó sẽ làm cho họ không tin những điều đó. Thật ra đây là vai trò điều khiển bởi nghiệp.
Bàn về căn cơ phải bao gồm luôn vấn đề ngộ tính. Khi chúng ta nói về "ngộ", có người nghĩ rằng ngộ được coi như là khôn ngoan. Người khôn hay là người lanh lợi được người thường nói tới thật ra khác xa với sự tu luyện mà chúng ta đang bàn nơi đây. Những loại người khôn ngoan này thường khó có thể ngộ đạo dễ dàng. Họ chỉ chú trọng đến những điều thuộc về thế giới vật chất thực tế này, chẳng hạn như không lợi dụng, và cũng như không buông bỏ bất cứ điều gì họ cho là tốt. Nhất là có vài người trong nhóm đó tự cho mình có nhiều kiến thức, học rộng và khôn ngoan; họ nghĩ rằng tu luyện là chuyện hoang đường. Ðối với họ, tập luyện các động tác và tu luyện tâm tính là điều không thể tin được. Họ coi người tu là khùng điên và mê tín. Cái ngộ mà chúng ta nói ở đây không liên quan đến khôn ngoan, nhưng là trở về bản tính con người, về bản tính chân thật, làm người tốt, và thuận theo bản chất của vũ trụ. Căn cơ quyết định ngộ tính của một người. Nếu người có căn cơ tốt thì ngộ tính cũng có khuynh hướng thành ra tốt. Căn cơ quyết định ngộ tính; nhưng ngộ tính thì không hoàn toàn tùy thuộc vào căn cơ. Không kể căn cơ của quý vị tốt đến đâu, nếu quý vị thiếu sự hiểu biết hay khả năng hiểu biết thì sẽ không có giác ngộ. Ðối với những người mà căn cơ không tốt cho lắm nhưng họ có ngộ tính thật cao thì họ có thể tu luyện lên cao tầng. Chúng tôi cứu độ tất cả chúng sinh. Vì vậy chúng tôi xem xét ngộ tính chứ không phải căn cơ. Mặc dầu quý vị mang rất nhiều điều xấu trong người, nhưng khi quý vị vẫn còn quyết định tu lên cao tầng, một niệm này của quý vị xuất ra là chính niệm. Với ý nghĩ này, quý vị chỉ cần buông bỏ nhiều hơn người khác một chút, thì quý vị có thể tu luyện đến đích.
Cơ thể người tu đã được thanh lọc. Nó sẽ không nhiễm bệnh sau khi Công đã phát triển, vì chất liệu cao tầng hiện diện trong cơ thể của quý vị không cho phép sự có mặt của các chất đen. Nhưng có người không tin, luôn luôn nghĩ rằng họ bị bệnh và than trách "Tại sao tôi cảm thấy khó chịu quá như thế này". Chúng tôi nói rằng điều mà quý vị đạt được đó là Công. Quý vị được một điều quá tốt như vậy, vậy tại sao quý vị có thể không bị khó chịu cho được? Trong sự tu luyện người ta phải mất đi một số điều tương ứng. Thật ra những điều đó chỉ ở bên ngoài và không ảnh hưởng gì đến cơ thể của quý vị hết. Chúng nó không phải là bệnh mặc dầu chúng nó trông có vẻ như vậy. Người tu không những cần phải chịu đựng những đau khổ tệ hại nhất, nhưng cũng cần phải có ngộ tính tốt. Có người ngay cả không thử tìm hiểu khi phải đối phó với các vấn đề lộn xộn này. Tôi giảng về cao tầng và làm sao họ có thể tự đo lường theo tiêu chuẩn của cao tầng, nhưng họ vẫn tự cư xử như người thường. Họ không có thể ngay cả tự đặt mình vào vị thế của người tu chân chính để mà tu luyện, họ cũng không có thể tin rằng họ sẽ đạt tới cao tầng nữa.
Ngộ ở cao tầng liên quan đến việc trở nên ngộ và được xếp loại thành đốn ngộ (ngộ thình lình) và tiệm ngộ (ngộ dần dần). Đốn ngộ muốn nói đến tiến trình mà việc tu luyện hoàn toàn được thi hành theo phương thức khóa kín. Sau khi quý vị hoàn tất trọn vẹn tiến trình tu luyện và tâm tính của quý vị đã được nâng lên, đến lúc cuối cùng này, tất cả các công năng được khai phóng ngay lập tức, Thiên mục mở tức khắc ở tầng cao nhất, và tâm thức của quý vị có thể liên lạc với các đấng bề trên ở các cõi không gian khác. Người ta tức thời nhìn thấy chân lý của toàn vũ trụ và các không gian khác nhau của nó, và các thế giới đơn nguyên và tiếp xúc với các cảnh giới này. Người ta cũng có thể sử dụng các thần thông vĩ đại của họ. Đốn ngộ là phương thức tu khó theo nhất. Trong lịch sử chỉ những người đại căn cơ mới được chọn làm đệ tử, và được truyền dạy riêng biệt và từng người một. Người thường không thể chịu đựng nổi. Tôi đã theo lối đốn ngộ này.
Những điều tôi truyền cho quý vị tất cả thuộc về tiệm ngộ. Trong tiến trình tu luyện, khi thời điểm tới để phát triển một công năng nào đó thì nó sẽ phát triển. Nhưng không nhất thiết công năng phát triển được sẽ để cho quý vị sử dụng. Khi quý vị không nâng tâm tính của mình lên đến một trình độ nào đó và không thể tự mình cư xử đúng đắn thì rất dễ phạm phải lỗi lầm. Tạm thời những công năng này không dành sẵn cho quý vị sử dụng. Tuy vậy, những thứ này sẽ để sẵn cho quý vị. Qua sự tu luyện, quý vị sẽ dần dần nâng cao trình độ của mình và thấu hiểu chân lý của vũ trụ này. Cũng như thình lình ngộ, sự hoàn mỹ dĩ nhiên sẽ thực hiện được. Lối tu từ từ ngộ này dễ hơn một chút, và không có nguy hiểm. Cái khó của nó là quý vị thấy trọn tiến tình tu luyện, vì vậy quý vị phải tự giữ mình theo các tiêu chuẩn ở cao tầng.

9. Tâm thanh tịnh

Có người không thể bước vào trạng thái thanh tịnh trong lúc thực hành, và đang tìm cách để làm điều này. Có người hỏi tôi rằng "Thưa thầy tại sao con không thể tịnh được trong lúc tập luyện? thầy có thể dạy cho con một phương pháp hay kỹ thuật nào đó để con có thể tịnh được khi ngồi thiền? " Tôi nói làm sao quý vị có thể tịnh được?! Ngay cả nếu một vị tiên xuống chỉ cách cho quý vị, quý vị cũng không thể nào tịnh cho được. Tại sao vậy? Lý do là vì tâm của quý vị không được trong sạch. Sống trong xã hội với nhiều cảm xúc và ham muốn, đủ thứ tư lợi cá nhân, các vấn đề của chính quý vị hay ngay cả của gia đình quý vị và bạn hữu của quý vị đã chiếm một phần quá lớn trong đầu của quý vị, và đang phát ra mệnh lệnh ở ưu tiên cao. Làm sao quý vị trở nên thanh tịnh khi ngồi thiền cho được? Nếu quý vị cố ý gạt bỏ điều gì, nó sẽ tự động trở lại ngay lập tức.
Sự tu luyện trong Phật giáo nói về "Giới, Ðịnh và Huệ". Giới là từ bỏ những điều mà quý vị còn ham muốn. Có người áp dụng cách niệm danh Phật, mà nó đòi hỏi sự tập trung tư tưởng khi niệm Phật để đạt được trạng thái một niệm thay vạn niệm. Tuy nhiên, nó không đơn giản là một phương pháp mà là một dạng công phu. Nếu quý vị không tin thì quý vị hãy thử niệm xem. Tôi có thể chắc rằng khi quý vị niệm danh Phật trong miệng, những thứ khác sẽ bắt đầu hiện lên trong đầu quý vị. Mật Tông Tây Tạng đã dạy cách niệm danh Phật. Họ phải niệm danh Phật hàng trăm ngàn lần mỗi ngày trong vòng một tuần như vậy. Họ niệm đến khi bị chóng mặt, rồi sau cùng, không còn gì trong đầu của họ. Ðây là một niệm thay vạn niệm, là một loại công phu mà quý vị có lẽ không thể làm được. Cũng có những phương pháp tu luyện khác dạy quý vị cách tập trung tư tưởng ở Ðan Ðiền, hay là dạy quý vị những phương pháp khác chẳng hạn như là đếm số hay nhìn thẳng vào một vật gì, v..v. Thật ra tất cả các phương pháp này sẽ không đưa quý vị vào trạng thái cực tịnh. Người tu phải đạt được một tâm trong sạch, buông bỏ quyền lợi cá nhân và bỏ đi đầu óc chứa đầy dục vọng.
Thật ra người ta có thể bước vào trạng thái định và thanh tịnh được hay không là phản ảnh bề cao của khả năng và trình độ của họ. Có khả năng tịnh được khi vừa ngồi xuống là dấu hiệu của một cấp bậc cao. Nếu quý vị không thể tịnh được trong lúc này, điều này cũng không sao. Quý vị sẽ từ từ đạt được trong lúc tu luyện. Tâm tính cải tiến dần dần và công cũng như vậy đó. Nếu không xem nhẹ quyền lợi và ham muốn cá nhân thì không có cách nào phát triển công được.
Người tu phải tự giữ mình theo tiêu chuẩn ở cao tầng trong bất cứ lúc nào. Người tu đang bị liên tục ảnh hưởng bởi mọi hiện tượng phức tạp của xã hội, nhiều điều không lành mạnh và thấp hèn, cũng như mọi cảm xúc và ham muốn. Những điều được quảng cáo trên truyền hình, phim ảnh và sách vở kích thích quý vị để trở nên một người hung hăng hơn và thực tế hơn giữa những người thường. Nếu quý vị không thể vượt qua những điều này, quý vị sẽ tự tách mình xa khỏi tâm tính và trạng thái tinh thần của người tu và sẽ đạt được ít công hơn. Người tu phải không liên quan hoặc liên quan ít thôi đối với những điều không lành mạnh và thấp hèn này. Họ phải nhắm mắt và bịt tai lại đối với những điều này, và sẽ không bị lay chuyển bởi người hay vật. Tôi thường nói rằng tâm ý người thường không thể lay chuyển tôi được. Tôi sẽ không cảm thấy sung sướng khi có người cầu xin tôi. Tôi sẽ không khó chịu khi có người la rầy tôi. Không kể ảnh hưởng tâm tính của người thường nghiêm trọng đến mức nào, nó đều không có tác dụng gì đối với tôi. Người tu phải xem thật nhẹ tất cả mọi quyền lợi cá nhân thâu góp được, và không xem trọng chúng. Ðến lúc này, ý định của quý vị để được giác ngộ trở nên vững chắc. Không có ham muốn để theo đuổi danh và tư lợi, và xem chúng như pha, quý vị sẽ không trở nên khẩn trương hay là khó chịu và sẽ luôn luôn ở trạng thái quân bình tâm lý. Bỏ tất cả xuống, quý vị sẽ tự nhiên trở nên trong sạch.
Tôi đã giảng đại Pháp và tất cả năm bộ động tác cho quý vị. Tôi đã điều chỉnh cơ thể của quý vị và gắn "Pháp Luân" và "khí cơ", và Pháp Thân tôi cũng bảo vệ quý vị. Những gì phải cho quý vị, tất cả đã được giao cho quý vị. Trong lớp học, tất cả tùy vào tôi. Từ giờ trở đi, tất cả đều tùy thuộc quý vị. Sư phụ lĩnh tiến môn, tu hành tại cá nhân. Chừng nào quý vị còn học Đại Pháp kỹ lưỡng, cẩn thận chứng nghiệm và hiểu biết, luôn luôn giữ gìn tâm tính, chuyên cần tu luyện, chịu đựng tất cả những đau khổ tệ hại nhất, và không than phiền ngay cả những điều tệ hại nhất, tôi nghĩ quý vị sẽ chắc chắn thành công trong sự tu luyện của quý vị.
Công tu hữu lộ tâm vi kính,
Ðại Pháp vô biên khổ tố chu.

(Diễn nghĩa: Có đường tu luyện công phu, tâm là đường tắt nhất;
Đại Pháp không ngằn mé lấy khổ làm thuyền)

HOÀN THIỆN BẢN THÂN - CHƯƠNGII-PHÁP LUÂN CÔNG

CHƯƠNG II PHÁP LUÂN CÔNG

Pháp Luân Công bắt nguồn từ Pháp Luân Tu Luyện Ðại Pháp của Phật Gia, nó là một phương pháp tu luyện khí công đặc biệt của Phật Gia, nhưng chính nhờ nó có các đặc tính riêng biệt mà làm cho nó nổi bật lên giữa các đường lối tu luyện trung bình khác trong Phật Gia. Hệ thống tu luyện này là một phương pháp tu luyện đặc biệt và cấp tốc nên vẫn thường đòi hỏi người tu phải có một tâm tính thật cao và căn cơ thật tốt1. Ðể giúp cho nhiều người luyện công lên cao được, đồng thời vẫn thỏa mãn yêu cầu của phần đông các người quyết chí tu luyện, tôi đã chỉnh đốn lại và cập nhật toàn bộ các phương pháp tu luyện này để thích hợp cho việc quảng bá trong quần chúng, mặc dù được sửa đổi, nó này vẫn vượt xa những kết quả và trình độ khi tập luyện các công pháp.

1. Vai trò của Pháp Luân

Pháp Luân của Pháp Luân Công có được cùng đặc tính với vũ trụ, nó là mô hình nhỏ của vũ trụ. Người tu luyện theo Pháp Luân Công sẽ không chỉ có khả năng phát triển các công năng và công lực một cách nhanh chóng, mà họ cũng sẽ phát triển được một Pháp Luân với uy lực vô tỷ trong thời gian thật ngắn. Sau khi Pháp Luân được thành hình, nó tồn tại dưới dạng một linh thể2, nó luôn luôn quay tự động không ngừng nghỉ nơi vùng bụng dưới của người luyện công, liên tục thu hút và chuyển hóa năng lượng từ vũ trụ, và cuối cùng là biến đổi nó thành ra công trong bản thể của người luyện công, vì vậy nó đạt được hiệu quả của pháp luyện người3, nói cách khác, mặc dầu người ta không thể luôn luôn luyện tập, nhưng Pháp Luân vẫn không ngừng luyện người. Khi quay vào trong Pháp Luân độ chính mình, nó làm cho người tu luyện mạnh mẽ hơn và khỏe mạnh hơn, thông minh và khôn ngoan hơn, và bảo vệ cho người tu không bị sai lệch, nó cũng có thể giữ cho người tu không bị quấy nhiễu bởi những người với tâm tính thấp kém. Khi quay ra ngoài Pháp Luân độ cho người, nó có thể chữa bệnh và trừ tà cho người khác, điều chỉnh mọi trạng thái bất thường. Pháp Luân quay không ngừng nơi vùng bụng dưới, nó quay chín lần theo chiều kim đồng hồ và sau đó chín lần ngược chiều kim đồng hồ. Khi quay theo chiều kim đồng hồ nó thu hút năng lượng thật mãnh liệt của vũ trụ, năng lượng to lớn phi thường. Khi công lực tăng trưởng thêm nữa, sức xoay chuyển trở nên mạnh hơn nhiều, một trạng thái mà không thể đạt được khi cố gắng dùng ý hút đầy khí từ đỉnh đầu. Khi quay ngược chiều kim đồng hồ, nó phóng thích năng lượng và cứu độ tất cả chúng sinh, cũng như điều chỉnh mọi trạng thái bất thường, người nào ở gần người tu sẽ được ảnh hưởng tốt. Trong tất cả các cách tập khí công được giảng dạy trong nước của chúng ta (Trung quốc), Pháp Luân Công là công pháp đầu tiên và duy nhất đạt được tiêu chuẩn pháp luyện người.
Pháp Luân rất quý báu, không thể mua được bằng số tiền lớn nào. Khi giao Pháp Luân cho tôi, sư phụ của tôi dạy rằng: Pháp Luân không thể được truyền cho bất cứ người nào, tất cả mọi người dù đã tu luyện hàng ngàn năm và muốn nó, nhưng họ không thể có được. Ðiều này chỉ được truyền cho một người theo đường lối tu luyện của chúng tôi sau một thời gian thật là lâu, không như những thứ nào đó mà được truyền cho một người cứ mỗi vài chục năm, vậy nên Pháp Luân thật cực kỳ quý giá. Bây giờ, mặc dầu chúng tôi phổ truyền trong công chúng và biến nó thành ít mạnh mẽ, nó vẫn còn thật là quý giá. Ðối với người tu có nó, họ đã tiến được nửa đoạn đường tu luyện, những gì còn lại là để cho quý vị nâng cao tâm tính của mình, và sẽ có một cấp khá cao đang chờ quý vị. Dĩ nhiên, người không có duyên phận sẽ ngưng tập luyện sau khi bắt đầu một thời gian, và rồi thì Pháp Luân sẽ không còn tồn tại trong người họ nữa.
Pháp Luân Công là công pháp thuộc Phật Gia, nhưng nó hoàn toàn vượt ra ngoài phạm vi của Phật Gia, nó luyện theo cả toàn vũ trụ. Trong quá khứ tu luyện trong Phật Gia chỉ nói về những nguyên lý của Phật Gia, trong khi tu luyện theo Đạo Gia chỉ nêu lên những nguyên lý của Đạo Gia, cả hai trường phái đều không có cắt nghĩa thấu đáo căn bản của vũ trụ. Vũ trụ cũng như con người, ngoại trừ cấu trúc vật chất ở bên ngoài, nó cũng có đặc tính riêng của nó, một cách vắn tắt là nó có thể được tóm gọn trong ba chữ, đó là "Chân Thiện Nhẫn". Tu luyện theo Đạo Gia chủ yếu ngộ về "chân", nói chân thật, làm việc chân thật, trở về nguồn cội, và sau cùng thành một chân nhân. Tu luyện theo Phật Gia chú trọng về "thiện", làm sản sinh tâm đại từ bi, cứu độ chúng sinh. Pháp môn của chúng ta tu theo "Chân Thiện Nhẫn" cùng một lúc, tức là trực tiếp tu luyện theo đặc tính căn bản của vũ trụ, và cuối cùng là đạt được sự đồng hóa cùng vũ trụ4.
Pháp Luân Công là công pháp tu cả tâm lẫn thân, khi công lực và tâm tính đã đạt đến một trình độ nào đó, là đến lúc để đạt tới trạng thái khai ngộ (khai công) trong thế gian này, tu thành một cơ thể không bao giờ bị hư hoại5. Nói chung Pháp Luân Công được chia thành thế gian pháp và xuất thế gian pháp mà bao gồm nhiều cấp bậc. Tôi hy vọng rằng mọi người quyết chí sẽ chuyên cần tu luyện, không ngừng nâng cao tâm tính, đạt đến viên mãn.

2. Hình dáng của Pháp Luân

Pháp Luân của Pháp Luân Công là một vật thể có linh tính, xoay tròn và cấu thành từ vật chất cao năng lượng. Nó chuyển động xoay tròn theo đúng luật chuyển động của toàn vũ trụ. Ở một mức độ nào đó, Pháp Luân là một mô hình nhỏ của vũ trụ.
Ở giữa Pháp Luân là dấu hiệu chữ Vạn (chu Van) của Phật Gia. Nó là trung tâm của Pháp Luân. Màu sắc của nó gần giống như màu vàng kim với nền màu đỏ sáng chói. Nền của vòng tròn bên ngoài thì màu cam. Bốn dấu hiệu Thái Cực và bốn chữ Vạn của Phật Gia được xếp đặt xen kẽ nhau theo tám hướng. Thái cực gồm có màu đỏ và đen thuộc về Đạo Gia, trong khi Thái Cực với màu đỏ và xanh thuộc về Tiên Thiên Đại Đạo. Bốn chữ Vạn nhỏ cũng có màu vàng kim. Nền của Pháp Luân có màu thay đổi theo chu kỳ: đỏ, cam, vàng, xanh lá cây, xanh dương, chàm, và tím. Những màu này rất đẹp. Các màu của chữ Vạn chính giữa và Thái Cực thì không thay đổi. Các Pháp Luân với kích thước khác nhau này tự xoay chuyển, và chữ Vạn cũng vậy. Pháp Luân có cội rễ từ trong vũ trụ. Vũ trụ đang xoay chuyển, tất cả các thiên hà đang xoay chuyển, vì vậy, Pháp Luân cũng đang xoay chuyển. Những người đã mở Thiên mục ở cấp thấp, họ có thể nhìn thấy Pháp Luân đang quay vòng như một cây quạt; còn những người mở Thiên mục ở cấp cao, họ có thể thấy nguyên hình Pháp Luân rất đẹp và sáng chói, điều này khuyến khích người tu phấn đấu mạnh mẽ để tiến lên.

3. Ðặc Ðiểm Của Pháp Luân Công

(1) Pháp luyện nhân

Người tập Pháp Luân Công sẽ không chỉ có khả năng làm tăng Công lực và công năng một cách mau chóng, nhưng cũng sẽ có khả năng luyện thành Pháp Luân. Pháp Luân có thể được tạo thành trong một thời gian rất ngắn, và một khi thành hình, nó rất là mạnh mẽ. Nó có thể che chở cho người tu khỏi bị sai đường. Thêm vào đó, nó có thể bảo vệ người tu không bị quấy rầy bởi những người có tâm tính thấp kém. Nó cũng là một phương pháp tu luyện hoàn toàn khác hẳn với lý thuyết của các phương pháp tu luyện truyền thống. Vì Pháp Luân tự nó xoay chuyển không ngừng nghỉ sau khi được thành lập, nó tồn tại dưới dạng thức của một linh thể, thu hút năng lực một cách liên tục và thường xuyên ở vùng bụng dưới của người tu. Pháp Luân xoay vòng để tự động thu hút năng lượng từ vũ trụ. Chính vì nó xoay chuyển không ngừng nghỉ, nó đạt được mục đích của "Pháp Luyện Nhân", nó liên hệ đến việc Pháp Luân luyện người không ngừng nghỉ ngay khi người ta không luôn luôn luyện tập. Như mọi người đều biết, người thường phải làm việc ban ngày và nghỉ ban đêm, còn lại rất ít thời giờ cho việc tu luyện. Ðể đạt được trạng thái tu luyện 24 giờ một ngày, phương pháp được gọi là luôn luôn nghĩ đến việc tu luyện không có hiệu lực, và sử dụng các phương pháp khác vẫn khó lòng đạt đến mục đích thật sự tu luyện 24 giờ một ngày. Tuy nhiên, Pháp Luân xoay chuyển không ngừng nghỉ, gom góp và chuyển hóa khí được hấp thụ từ vũ trụ bằng cách quay vào bên trong. Ðiều này được thực hiện ở mọi vị trí của Pháp Luân, ngày lẫn đêm, không bao giờ ngừng lại. Nó biến đổi khí thành một chất liệu ở cao tầng, sau cùng biến nó thành công mang trên thân người tu. Ðây gọi là "Pháp Luyện Nhân". Tu luyện theo Pháp Luân Công hoàn toàn khác với bất kỳ trường phái nào khác và các môn phái tu luyện khí công đan đạo.
Ðiểm nổi bật nhất của Pháp Luân Công là luyện một Pháp Luân thay vì luyện đan. Cho đến nay, trong các phương pháp tu luyện được phổ truyền, không kể đến từ trường phái nào hay đường lối tu luyện nào, có thể là chi nhánh của Phật giáo, Đạo giáo, Phật Gia, Đạo Gia, hay thuộc các hệ phái rải rác trong quần chúng, tất cả đều luyện đan. Nhiều đường lối tu luyện bàng môn khác cũng giống như vậy. Chúng được gọi là khí công đan đạo. Sự tu hành của các tăng, ni và các đạo sĩ, tất cả đều phát xuất từ cách tu luyện đan này. Nếu được hỏa táng sau khi viên tịch, chúng sẽ tạo thành các viên xá-lợi mà thành phần cấu tạo của chúng chưa được khám phá ra bởi các thiết bị khoa học tân tiến. Nó rất là cứng, chắc và rất đẹp. Thật ra, nó là chất liệu ở cao tầng được tích tụ từ các không gian khác, chứ không phải trong không gian của chúng ta. Ðó là Đan. Rất khó cho người theo khí công đan đạo để đạt được trạng thái giác ngộ trong một kiếp người. Trước kia, có rất nhiều người luyện theo khí công đan đạo đã cố gắng để vận chuyển Đan đi lên. Một khi nó chạy lên đến Nê hoàn cung, nó không có thể xuất ra ngoài, vì vậy những người này bị kẹt ở đây. Vài người rất muốn cho nó nổ tung ra, nhưng không biết làm cách nào. Một số người làm như thế này: Ông nội của người đó không thành công. Khi sắp chết, ông nội nhả ra và giao lại cho người cha. Người cha cũng không thành công. Khi chết, người cha cũng nhả ra và giao lại cho người con. Cho đến bây giờ, anh ta vẫn là người tầm thường. Quả thật là quá khó! Dĩ nhiên, cũng có nhiều phương pháp tu luyện đứng đắn. Nó tương đối khá tốt nếu quý vị có thể có được sự chân truyền. Tuy nhiên, vị thầy có thể không dạy cho quý vị những thứ thật sự ở cao tầng.

(2) Tu luyện chủ ý thức

Mọi người đều có một chủ ý thức (nguyên thần). Người ta thường tùy thuộc vào chủ ý thức khi thi hành các nhiệm vụ và xem xét các vấn đề. Ngoại trừ chủ ý thức,cũng có một hay nhiều phụ ý thức trong bản thể con người, cũng như các tín hiệu được thừa hưởng từ các tổ tiên trong gia đình. Phụ ý thức có cùng tên với chủ ý thức, nhưng thông thường nó có nhiều khả năng hơn và cũng ở cấp cao hơn chủ ý thức. Phụ ý thức không bị mê hoặc bởi cám dỗ của xã hội người thường của chúng ta và có thể nhìn thấy các không gian riêng biệt của nó.
Nhiều công pháp tu luyện theo lối luyện phụ ý thức, theo đó thì cơ thể vật chất và chủ ý thức chỉ có nhiệm vụ chuyên chở. Người tu luyện thường không biết đến những điều này. Và họ có thể vẫn cảm thấy rất thoải mái về chính họ. Khi đang sống trong xã hội, thật rất khó để một người từ bỏ điều thực tiễn, nhất là những điều mà người đó gắn bó vào. Vì vậy, nhiều phương pháp tu luyện nhấn mạnh đến việc tập luyện khi đang ở trong trạng thái hôn mê, một trạng thái hôn mê hoàn toàn. Khi sự chuyển hóa xảy ra trong lúc đang hôn mê, phụ ý thức đang qua sự chuyển hóa và được nâng cấp. Ngày nào đó, phụ ý thức hoàn tất sự tu luyện và mang công của quý vị đi. Không còn lại gì cho chủ ý thức và bản thể thật của quý vị hết, và cả đời tu luyện của quý vị sẽ tiêu tan hết. Ðiều này thật đáng tiếc. Một số thầy khí công danh tiếng sử dụng mọi loại công năng vĩ đại và nhờ nó mà được nổi danh và được kính nể; tuy nhiên, họ vẫn không nhận thức được là công của họ không tăng trưởng trên chính cơ thể của họ.
Pháp Luân Công của chúng ta tu luyện trực tiếp về chủ ý thức, nó đòi hỏi Công phải thật sự tăng trưởng trên cơ thể của quý vị. Dĩ nhiên, phụ ý thức cũng sẽ được chia phần, vì là phần quan trọng thứ nhì sau chủ ý thức, nó cũng đang thăng tiến. Phương pháp tu luyện của chúng ta đòi hỏi một tâm tính thật gắt gao, để cho quý vị rèn luyện tâm tính của mình và thăng tiến trong trong mọi hoàn cảnh phức tạp nhất của xã hội người thường, như hoa sen mọc lên giữa bùn lầy. Vì vậy quý vị được chứng đắc trong sự tu luyện của mình. Ðây là lý do tại sao Pháp Luân Công quý báu như vậy. Nó quý báu vì chính quý vị đạt được Công. Nhưng, nó cũng rất khó khăn. Sự khó nhọc dựa trên sự kiện là quý vị đã chọn một đường đi mà sẽ hướng dẫn quý vị tu luyện trong các hoàn cảnh phức tạp nhất.
Vì mục đích tập luyện là tu luyện chủ ý thức, chủ ý thức phải được sử dụng để điều khiển sự tu luyện. Những gì chủ ý thức quyết định là dứt khoát; nó không được chuyển qua cho phụ ý thức. Nếu không, sẽ có một ngày khi phụ ý thức hoàn tất sự tu luyện của nó ở một cấp cao và mang Công theo với nó. Vì vậy, là chủ bản thể và chủ ý thức, quý vị sẽ không còn lại gì cả. Khi quý vị tu luyện ở cao tầng, nó không thể chấp nhận được khi chủ ý thức của quý vị ngay cả không ý thức được mình đang tu luyện, như là quý vị đang ngủ mê vậy. Quý vị phải biết rõ rằng mình đang tập luyện, tu luyện đến cao tầng và nâng cao tâm tính của mình. Chỉ như vậy quý vị sẽ kiểm soát được hành động của mình và có thể đạt được công. Nhiều lần khi quý vị lơ đễnh, quý vị có thể hoàn tất điều gì đó mà ngay cả không biết làm sao nó đã được làm. Thật ra, chính là phụ ý thức đã đóng vai trò trong đó. Phụ ý thức đã chủ động. Nếu quý vị ngồi thiền nơi đó, và quý vị mở mắt nhìn trước trán mình, quý vị sẽ thấy rằng có một quý vị khác ngồi đối diện. Nếu quý vị ngồi thiền quay về hướng bắc, nhưng bỗng nhiên, quý vị thấy mình ngồi tại hướng nam và quý vị bắt đầu nghĩ rằng: "Làm sao ta đi ra ngoài?", rồi thì đây là người thật của quý vị xuất ra. Cái đang ngồi đó là cơ thể của quý vị và phụ ý thức. Những điều này có thể phân biệt được.
Quý vị không được hoàn toàn quên hẳn mình khi đang tập luyện Pháp Luân Công. Quên chính mình tức là không theo đúng Đại Pháp của sự tu luyện Pháp Luân Công. Quý vị phải giữ tâm của mình được sáng suốt khi tập luyện. Quý vị sẽ không đi sai lệch nếu chủ ý thức của quý vị mạnh mẽ trong lúc luyện tập, và những điều tầm thường không thể làm hại đến quý vị. Nếu chủ ý thức yếu đi, những thứ lạ có thể xâm nhập vào cơ thể quý vị.

(3) Tu luyện không kể phương hướng hay giờ giấc

Nhiều phương pháp tu luyện rất chú trọng về phương hướng và thời điểm tốt nhất để luyện tập. Chúng ta không chú trọng về những điều này. Tu luyện Pháp Luân Công là chiểu theo đặc tính của vũ trụ và những nguyên lý diễn hóa của vũ trụ mà luyện. Vì vậy, chúng ta không chú trọng về phương hướng hay thời điểm. Các bài tập của chúng ta tương đương với tập luyện trong lúc đang ngồi trên Pháp Luân, nó có ở mọi hướng và luôn luôn xoay vòng. Pháp Luân của chúng ta hòa nhịp với cả vũ trụ. Vũ trụ đang chuyển động, giải Ngân hà đang chuyển động, chín hành tinh đang quay chung quanh mặt trời và trái đất chính nó cũng đang quay. Hướng nào là đông, nam, tây hay là bắc? Người sống trên trái đất nghĩ ra các phương hướng. Vì vậy, bất kỳ hướng nào quý vị đối diện, quý vị sẽ đang đối diện với mọi hướng.
Một số người nói rằng tốt nhất là tập luyện lúc giữa đêm, có người nói lúc đúng ngọ, hay một thời điểm nào khác. Chúng ta cũng không bận tâm về vấn đề này vì Pháp Luân sẽ luyện quý vị khi quý vị không đang tập luyện. Pháp Luân đang giúp cho quý vị tu luyện ở mọi thời điểm, đó là "Pháp luyện nhân". Trong khí công đan đạo, người ta luyện đan; trong Pháp Luân Công, nó là pháp luyện người. Thực hành càng nhiều càng tốt khi quý vị có thì giờ. Tập ít đi khi quý vị không có nhiều thì giờ. Nó rất là thoải mái.

4. Tính mệnh song tu

Pháp Luân Công tu luyện tâm lẫn thân. Qua sự tu luyện, bản thể thật của quý vị được thay đổi trước. Không để mất bản thể thật, chủ ý thức hợp với cơ thể vật chất thành một, hoàn tất sự tu luyện một cách trọn vẹn.

(1) Thay đổi của bản thể

Một cơ thể con người gồm có thịt, máu và xương, với các thành phần và cấu trúc phân tử khác nhau. Nhờ tu luyện, thành phần nguyên tử của cơ thể con người được chuyển hóa thành chất liệu ở cao tầng. Vì vậy những bộ phận trong cơ thể con người không còn là những chất liệu nguyên thủy nữa, nhưng thay vào đó chúng đã trải qua một sự thay đổi căn bản về các chất lượng ở bên trong. Tuy nhiên, người tu tu luyện và sinh sống giữa những người thường, và không có thể vi phạm các tình trạng của xã hội loài người. Vì vậy, sự thay đổi như thế này không biến đổi các cấu trúc phân tử nguyên thủy, cũng không thay đổi thứ tự sắp xếp các phân tử. Nó chỉ thay đổi các thành phần nguyên tử nguyên thủy. Xác thịt của con người vẫn mềm mại, xương cốt vẫn rắn chắc và máu vẫn ở thể lỏng. Khi bị đứt tay người ta vẫn chảy máu. Theo học thuyết Ngũ hành của Trung Quốc cổ đại, "kim, mộc, thủy, hỏa và thổ" tạo nên vạn vật. Nó cũng như vậy đối với cơ thể con người. Khi người tu trải qua các sự biến đổi của bản thể thật của họ, có được các chất liệu ở cao tầng thế vào các thành phần nguyên tử nguyên thủy, tới lúc đó cơ thể con người không còn cấu tạo bởi các chất liệu nguyên thủy nữa. Ðiều này chính là điều được gọi là "không trong ngũ hành".
Ðặc điểm nổi bật nhất của các phương pháp tu luyện tâm lẫn thân là nó kéo dài mạng sống và chống lão hóa. Pháp Luân Công của chúng ta có được cái đặc điểm nổi bật này. Pháp Luân Công có tác dụng như sau: nó thay đổi từ căn bản các thành phần phân tử của cơ thể con người, gom góp lại và chứa các chất liệu cao tầng trong mọi tế bào, và cuối cùng để cho các chất liệu ở cao tầng thay thế các thành phần của tế bào. Bằng cách đó, sự già nua sẽ không xảy ra. Người ta quả thật không còn trong ngũ hành, biến cơ thể của họ thành một cơ thể gồm có các chất liệu ở các không gian khác. Nó không còn bị giới hạn bởi không gian và thời gian của chúng ta nữa, người này sẽ trẻ mãi.
Trong lịch sử, có nhiều vị cao tăng sống rất thọ. Bây giờ, có người sống tới vài trăm năm đi ngoài đường, và quý vị không có thể nói họ là ai. Họ trông rất trẻ và mặc quần áo giống người thường nên quý vị không thể phân biệt được. Tuổi thọ của con người không thể quá ngắn ngủi như hiện nay. Nói từ khía cạnh khoa học tân thời, người ta phải có khả năng sống đến hơn 200 tuổi. Theo các hồ sơ có một người tên là Femcath ở Anh quốc sống được 207 năm. Một người tên là Mitsu Taira ở Nhật sống đến 242 tuổi. Dưới thời nhà Ðường ở xứ ta (Trung Quốc) có một thầy tu tên là Huệ Chiêu (Hui Zhao) sống đến 290 tuổi. Theo sổ bộ của quận Vĩnh Thái (Yong Tai) thuộc tỉnh Phúc Kiến, Trần Khuyên (Chen Jun) sinh vào năm đầu của thời Trung Hòa (Zhong He) (năm 881 sau công nguyên) dưới triều vua Hi Tông (XiZong) của nhà Ðường. Ông mất dưới thời Thái Ðịnh (Tai Ding) của triều đại nhà Nguyên (năm 1324 sau công nguyên), sau khi sống được 443 tuổi. Những điều này được hỗ trợ bởi các hồ sơ và có thể tra cứu được. Chúng không phải là các chuyện thần thoại. Nhờ tu luyện, các người tu Pháp Luân Công làm giảm bớt các vết nhăn trên mặt một cách rõ rệt, và gương mặt hồng hào, khỏe mạnh và sáng sủa. Cơ thể của họ cảm thấy rất nhẹ nhàng và thư giãn, và không có dấu hiệu mệt mỏi khi đi bộ hay làm việc. Ðây là một hiện tượng thông thường. Nó cũng là lý do tại sao dáng vóc của tôi, theo các người khác nói lại, vẫn không thay đổi sau 20 năm. Chính tôi đã tu luyện trong nhiều chục năm. Pháp Luân Công của chúng ta có chứa đựng một nguyên lý tu thân rất vững vàng. Khi về già, người tu theo Pháp Luân Công trông khác với người thường thật rõ rệt. Họ trông không giống với số tuổi đời của họ. Vì vậy, đặc điểm nổi bật nhất của các phương pháp tu luyện tâm lẫn thân là gia hạn mạng sống, làm chậm sự lão hóa và kéo dài tuổi thọ.

(2) Pháp Luân chu thiên

Cơ thể của chúng ta là một tiểu vũ trụ. Năng lượng của cơ thể con người luân chuyển vòng quanh cơ thể, nó được gọi là chuyển động của tiểu vũ trụ, và cũng được gọi là chuyển động của vòng Chu Thiên. Vòng Chu Thiên nối liền hai mạch Nhâm và Ðốc, theo các xếp loại về cấp bậc, chỉ là một vòng Chu Thiên cạn dưới làn da. Nó không có hiệu lực để tu mệnh. vòng Tiểu Chu Thiên, theo nghĩa thật sự, di chuyển bên trong cơ thể đi từ Nê Hoàn Cung đến Đan Điền. Nhờ sự nội chuyển này, nó làm mở tung mọi kinh mạch bắt đầu từ bên trong cơ thể ra đến bên ngoài. Pháp Luân Công của chúng ta đòi hỏi tất cả các kinh mạch đều được mở ra ngay từ đầu.
Vòng Ðại Chu Thiên là vận chuyển của kỳ kinh bát mạch và đi vòng quanh cơ thể theo một vòng tuần hoàn. Khi vòng Ðại Chu Thiên được mở ra, nó sẽ mang đến trạng thái là người đó có thể bay khỏi mặt đất. Ðây là cái mà người ta muốn nói là "Bạch Nhật Phi Thăng", như được chép lại trong Đan Kinh. Tuy vậy, thường là một điểm nào đó trong cơ thể của quý vị sẽ bị khóa lại để cho quý vị không thể nào bay lên được. Tuy vậy, nó sẽ mang đến cho quý vị trạng thái như vậy: quý vị sẽ đi bộ nhanh hơn và không cần ráng sức, và khi quý vị đi lên dốc, quý vị sẽ cảm thấy như có ai đẩy phía sau quý vị. Sự khai mở của vòng Ðại Chu Thiên cũng có thể mang lại một loại công năng: nó có thể làm cho khí giữa các bộ phận khác nhau trong cơ thể hoán đổi vị trí. Khí của tim di chuyển đến dạ dày; khí của dạ dày đi đến ruột,v..v. Khi công lực được gia tăng thêm, khả năng này biến thành công năng di chuyển đồ vật từ xa (công năng ban vận) nếu khí được phóng ra ngoài cơ thể. Loại vòng Chu Thiên này cũng còn được gọi là "Tý Ngọ Chu Thiên" hay là "Càn Khôn Chu Thiên". Tuy vậy các chuyển động của nó vẫn chưa đạt được mục đích là chuyển hóa bản thể. Còn có một vòng Chu Thiên tương tự khác nữa được gọi là vòng "Mão Dậu Chu Thiên". Ðây là cách chuyển vận của Mão Dậu Chu Thiên: nó phát xuất từ huyệt Hội âm hoặc huyệt Bách hội, di chuyển dọc theo phía ngoài của cơ thể nơi tiếp giáp giữa mặt âm và dương.
Vòng Chu Thiên trong Pháp Luân Công lớn hơn các chuyển động của Kinh Lạc và Bát Mạch được bàn tới trong các pháp tu luyện trung bình. Nó là sự chuyển động của các kinh mạch xuyên tréo khắp cơ thể con người. Nó đòi hỏi tất cả các mạch phải được mở hoàn toàn ngay lập tức, và tất cả cùng nhau di chuyển. Những điều này đã được gắn sâu vào trong Pháp Luân Công của chúng ta, nên quý vị không cần phải cố ý luyện tập nó, cũng không cần phải hướng dẫn nó với ý nghĩ của quý vị. Nếu quý vị làm điều đó, quý vị sẽ đi sai đường. Tôi đã gắn khí cơ (bộ máy khí) bên ngoài cơ thể của quý vị trong lớp học. Nó luân chuyển một cách tự động. Khí cơ là thứ đặc biệt của sự tu luyện ở cao tầng, và là một phần của những gì làm cho sự tu luyện của chúng ta được tự động. Cũng như Pháp Luân, nó xoay chuyển không ngừng nghỉ, hướng dẫn tất cả các năng lượng bên trong kinh mạch của cơ thể chuyển động xoay tròn. Mặc dầu quý vị không có luyện tập vòng Chu Thiên, thật ra, những kinh mạch này đã được hướng dẫn xoay vòng, và phía ngoài cũng như phía sâu trong cơ thể đều cùng nhau chuyển động toàn diện. Chúng tôi sử dụng các bài tập để gia tăng sức mạnh của khí cơ hiện diện ở phía ngoài cơ thể.

(3) Khai mở kinh mạch

Mục đích khai mở kinh mạch là làm cho năng lượng chuyển động, để thay đổi các thành phần phân tử của tế bào và để chuyển hóa nó thành chất liệu ở cao tầng. Các kinh mạch của người không tu thì bị tắc nghẽn và rất là hẹp. Kinh mạch của người tu sẽ dần dần sáng sủa hơn, làm thông các vùng bị tắc. Kinh mạch của người tu lâu năm sẽ được nới rộng ra. Chúng sẽ còn nới rộng hơn nữa khi tu luyện ở cao tầng. Một số người có kinh mạch rộng như một ngón tay. Tuy vậy, sự khai mở các kinh mạch tự nó không phản ảnh các trình độ tu luyện, hoặc bề cao của Công. Nhờ tu luyện, các kinh mạch sẽ được sáng sủa hơn và nới rộng hơn, và dĩ nhiên sẽ liên kết với nhau để trở thành một khối đồng nhất. Tới lúc đó, người này không còn có kinh mạch hay các huyệt châm cứu nữa. Trái lại, toàn thân của họ tất cả đều là kinh mạch và các huyệt châm cứu. Ngay cả đến lúc này, nó không có nghĩa là người này đã đạt được sự tu luyện. Nó chỉ phản ảnh một trình độ nào đó trong tiến trình tu luyện Pháp Luân Công. Khi đạt đến giai đoạn này, người ta đã đạt tới đoạn cuối của sự tu luyện thế gian pháp. Cùng lúc đó, nó mang đến một trạng thái giống như là sự xuất hiện ở bên ngoài của Tam Hoa Tụ Ðỉnh. Một số lớn công đã được phát triển, với mọi hình dạng, và cột trụ công cũng rất là cao. Thêm nữa, ba đóa bông đã xuất hiện trên đỉnh đầu, một bông giống như là hoa cúc và một bông khác là hoa sen. Cả ba đóa hoa đều quay tròn, và cùng lúc, thay phiên nhau xoay chung quanh chính nó. Mỗi đóa hoa có một cột trụ rất cao ở bên trên, cao tới tận trời. Ba cột trụ này cũng quay tròn và xoay chung quanh chính nó cùng lúc với các đóa hoa. Người ta sẽ cảm thấy bộ đầu trở nên nặng nề. Tới điểm này, người ta đang ở bậc cuối cùng của sự tu luyện thế gian pháp.

5. Ý niệm

Tu luyện Pháp Luân Công không kèm theo ý niệm. Ý niệm tự nó không đạt được gì cả, nhưng nó có thể đưa ra các mệnh lệnh. Cái mà thật sự thi hành là các công năng, nó có khả năng suy nghĩ của một linh thể và có thể nhận chỉ thị từ các tín hiệu đến từ bộ óc. Nhưng nhiều người, nhất là những người trong lĩnh vực khí công, có rất nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này. Họ cho rằng ý niệm có thể làm được rất nhiều việc. Có người nói đến việc sử dụng ý niệm để phát triển các công năng, để mở thiên mục, để chữa bệnh và di chuyển đồ vật từ xa, v..v. Hiểu như vậy là sai. Ở các cấp thấp, người thường sử dụng ý niệm để điều khiển các giác quan và tứ chi. Ở các cấp cao, ý niệm của người tu tiến cao hơn một bậc, nó ra lệnh cho các quyền năng để thi hành các công tác. Nói cách khác, các công năng nhận mệnh lệnh từ ý niệm. Ðây là cách mà chúng ta xem xét ý niệm. Ðôi khi chúng tôi thấy một vị thầy khí công trị bệnh cho người khác. Các bệnh nhân nói rằng họ trở nên khá hơn ngay cả khi vị thầy chưa động đến ngón tay nữa, và họ nghĩ rằng bệnh được chữa bằng ý niệm. Thật ra, người ta sử dụng một loại của công năng và ra lệnh cho nó trị bệnh, hoặc làm điều gì khác. Vì công năng di chuyển trong một không gian khác, người thường không thể thấy bằng mắt của họ. Những người không hiểu cho rằng đó là kết quả của ý niệm. Có người tin rằng ý niệm có thể dùng để trị bệnh, nhưng đó là hướng dẫn người ta đi lạc đường. Quan điểm này phải được làm sáng tỏ.
Ý nghĩ của con người là một loại tín hiệu, một loại năng lượng và cũng là một dạng của vật chất. Khi người ta nghĩ về các vấn đề gì, bộ óc phát ra một rung động. Ðôi khi nó thật là hữu hiệu khi niệm chú. Tại sao vậy. Vì vũ trụ cũng có tần số rung động của chính nó. Khi tần số câu chú của quý vị trùng hợp với tần số của vũ trụ, nó có thể có hiệu lực. Muốn cho chắc chắn có hiệu lực, nó phải là một chú rất nhỏ vì các điều tà ma không được phép tồn tại trong vũ trụ. Ý niệm cũng là một lối suy nghĩ đặc biệt. Pháp Thân của các thầy khí công cao cấp được kiểm soát và nhận mệnh lệnh từ ý nghĩ của bản thể chính. Pháp Thân cũng có suy nghĩ riêng của nó, nó có khả năng độc lập để tự giải quyết các vấn đề và thi hành các công tác. Nó là một cá thể hoàn toàn độc lập. Nhưng cùng lúc, Pháp Thân hiểu ý nghĩ của bản thể chính của các thầy khí công và thi hành các công tác dựa theo các ý nghĩ đó. Chẳng hạn như nếu vị thầy Khí công muốn trị bệnh cho một cá nhân nào đó, Pháp Thân của ông ta sẽ đi đến đó. Nếu không có ý nghĩ đó, nó sẽ không đi. Khi nó thấy một điều gì thật tốt và nên làm, nó sẽ tự mình làm điều đó. Có thầy chưa đạt đến trạng thái giác ngộ. Có một số điều ông ta chưa được biết, nhưng Pháp Thân của ông ta đã biết rồi.
Ý niệm cũng bao gồm ý nghĩa của linh cảm. Linh cảm không đến từ chủ ý thức của con người. Kiến thức căn bản của chủ ý thức rất là hạn hẹp. Nó sẽ không làm được nếu chỉ dựa vào chủ ý thức để thử đưa ra giải pháp gì mà chưa có trong xã hội này. Linh cảm đến từ phụ ý thức. Có người tham gia vào các công trình sáng tạo hay nghiên cứu khoa học. Khi họ bị kẹt sau khi tận dụng bộ óc của họ, họ bỏ ngang, nghỉ xả hơi một hồi, hay là đi bộ ngoài trời. Đột nhiên, linh cảm đến với họ mà không cần suy nghĩ. Họ lập tức bắt đầu ghi chép mọi điều xuống một cách nhanh chóng. Vì vậy họ đã sáng chế ra được điều gì. Ðây là vì khi chủ ý thức quá mạnh, nó kiểm soát bộ óc. Nó bị kẹt. Khi chủ ý thức buông lỏng, phụ ý thức bắt đầu hoạt động. Rồi nó kiểm soát bộ óc. Phụ ý thức, thuộc về một không gian khác, không bị kiềm chế bởi không gian này, và nó có khả năng sáng tạo những điều mới lạ. Nhưng phụ ý thức không thể vượt quá hay là cản trở các tình trạng của xã hội người thường, cũng không có thể ảnh hưởng đến sự tiến bộ của phát triển trong xã hội.
Linh cảm đến từ hai nguồn gốc. Một là do được cung cấp bởi phụ ý thức. Phụ ý thức không bị lạc giữa cạm bẫy của thế giới này và có thể tạo ra linh cảm. Nguồn gốc khác nữa đến từ các mệnh lệnh và hướng dẫn của một linh thể ở cao tầng. Khi được hướng dẫn bởi một linh thể ở cao tầng, tâm người ta đã được mở rộng và có thể sáng tạo những thứ thật quan trọng. Sự phát triển toàn vẹn của xã hội và của vũ trụ có các nguyên lý riêng của nó. Không có gì xảy ra do sự ngẫu nhiên hết.

6. Tầng thứ tu luyện của Pháp Luân Công

(1) Tu luyện ở cao tầng

Pháp Luân Công tu luyện ở một cấp thật cao, vì vậy công được phát sinh rất mau. Ðại đạo rất đơn giản và dễ dàng. Trên căn bản tổng quát, Pháp Luân Công có rất ít động tác. Tuy vậy, nó kiểm soát tất cả các bộ phận của cơ thể, kể cả những thứ sẽ được sinh ra. Chừng nào tâm tính có thể được tăng lên, công sẽ tăng thật mau, nó đòi hỏi rất ít cố gắng của ý định, hay sử dụng phương pháp đặc biệt nào, hay bắt lò luyện đan. Dựa vào sự hướng dẫn của ý định có thể rất là phức tạp và có thể dễ dàng đi sai lệch. Nơi đây chúng tôi cung cấp một lối tu luyện thích hợp nhất và tốt nhất, tuy vậy cũng là khó nhất.
Ðể cho người tu đạt đến trạng thái Thân Trắng Như Sữa (nãi bạch thể), nó sẽ mất hơn chục năm, nhiều chục năm, hay ngay cả lâu hơn nữa theo các pháp môn khác. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ mang quý vị đến trạng thái này ngay lập tức. Trình độ này có lẽ đã vượt qua trước khi quý vị ngay cả cảm nhận được nó. Nó có lẽ kéo vài khoảng vài giờ. Sẽ có một ngày quý vị cảm thấy rất nhạy cảm, và chỉ một lúc sau, quý vị sẽ không còn cảm thấy nhạy cảm như vậy nữa. Thật ra, quý vị vừa mới trải qua một cấp bậc lớn.

(2) Các hình thức biểu lộ của công

Sau khi trải qua sự điều chỉnh của cơ thể vật chất, học viên Pháp Luân Công đã đạt đến một trạng thái thích hợp cho việc tu luyện Ðại Pháp. Ðây là trạng thái ‘nãi bạch thể’. Công chỉ có thể được tạo thành sau khi chúng được điều chỉnh tới trạng thái này. Người có thiên mục mở ở cấp cao có thể thấy công phát triển trên làn da của người đó, rồi nó được thu hút vào trong cơ thể của người tu. Kế đó nó được tạo thành lần nữa và hấp thụ vào trong cơ thể lần nữa, và cứ tiếp tục như vậy, đi từ lớp này đến lớp khác, đôi khi rất nhanh chóng. Ðây là công của đợt đầu. Sau khi công đã được phát triển trong đợt đầu, cơ thể của người tu không còn là một cơ thể thường nữa. Sau khi đạt đến “nãi bạch thể” người ta sẽ không bao giờ bị bệnh nữa. Cơn đau có thể xuất hiện đó đây hay là sự khó chịu ở vùng nào đó, tương tự như bệnh tật, nhưng nó không phải là bệnh. Nó gây ra bởi nghiệp lực. Sau đợt phát triển công lần thứ nhì, các linh thể đã tăng trưởng thật lớn. Chúng có thể di chuyển và trò chuyện. Ðôi khi chúng nó được sinh sản rải rác, đôi khi tụ lại rất đông đúc. Chúng cũng có thể nói chuyện với nhau nữa. Một khối năng lượng thật lớn được chứa đựng trong các linh thể này, nó được dùng để thay đổi bản thể thật sự.
Khi tu luyện theo Pháp Luân Công đến một cấp thật cao, đôi khi Hài-nhi (Anh hài) xuất hiện cùng khắp cơ thể con người. Chúng nó rất là nghịch ngợm, thích nô đùa và rất rộng lượng. Cũng có thể một linh thể khác được sinh ra. Ðó là Nguyên Anh. Nó ngồi trên tòa sen trông thật đẹp. Nguyên Anh được sinh ra do sự tương hội giữa Âm và Dương trong cơ thể con người. Người tu nam cũng như nữ đều có thể luyện thành Nguyên Anh. Lúc đầu Nguyên Anh rất nhỏ, nhưng nó lớn dần, và cuối cùng nó to lớn cũng bằng và trông giống như người tu. Nó ở phía trong cơ thể của người tu. Khi người có công năng nhìn người đó, họ sẽ nói rằng người đó có hai cơ thể. Thật ra, người đó đã luyện thành cơ thể thật của mình. Thêm vào đó, có nhiều Pháp Thân cũng có thể được phát sinh nhờ sự tu luyện. Một cách tổng quát, các công năng được phát triển trong vũ trụ, tất cả đều có thể được phát triển trong Pháp Luân Công; các công năng được phát triển trong các pháp môn tu luyện khác, tất cả cũng được bao gồm trong Pháp Luân Công.

(3) Tu luyện xuất thế gian pháp

Nhờ tập luyện, người tu làm cho các kinh mạch của mình nới rộng hơn và rộng hơn nữa, nối liền với nhau thành một khối. Ðó là tu luyện đến trạng thái không còn kinh mạch hay huyệt châm cứu nữa. Nhưng nói khác đi, kinh mạch và các huyệt châm cứu hiện diện ở khắp nơi. Ðiều này cũng chưa có nghĩa là quý vị đạt được Ðạo. Nó chỉ phản ảnh một trình độ nào đó trong tiến trình tu luyện Pháp Luân Công. Khi đạt đến trạng thái này, người ta đi đến cuối đường của sự tu luyện Thế Gian Pháp. Công phát triển được rất là mạnh mẽ, và có đủ mọi hình dáng. Cột trụ công cũng rất cao. Thêm vào đó, ba đóa hoa xuất hiện trên đỉnh đầu. Tới lúc đó, người này đã hoàn tất bước cuối cùng của Thế Gian Pháp.
Tiến thêm một bước nữa về phía trước, không còn lại gì nữa cả. Tất cả mọi công đều được ẩn dấu vào nơi không gian sâu thẩm của cơ thể con người. Người ta đi vào trạng thái Tịnh Bạch Thể, đó là cơ thể trở nên trong suốt. Tiến lên một bậc nữa, người ta đi vào sự tu luyện của Xuất Thế Gian Pháp, cũng được gọi là “tu luyện Phật thể”. Công phát triển ở giai đoạn này thuộc loại thần thông. Lúc đó, người ta có quyền năng vô giới hạn, trở thành rất là mạnh mẽ. Khi đạt đến một cảnh giới cao hơn nữa, người ta sẽ tu luyện để trở thành người giác ngộ. Ðiều này tùy thuộc vào cách tu luyện tâm tính của quý vị. Quý vị tu luyện được tới trình độ nào thì "Quả Vị" của quý vị tới trình độ đó. Người tu chân chính có được Chính pháp, và đạt thành Chính Quả; và đó là sự hoàn tất mỹ mãn của sự tu luyện.

HOÀN THIỆN BẢN THÂN - CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU

CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU

Ở xứ ta (Trung hoa), khí công xuất hiện từ xa xưa và có một lịch sử lâu dài. Vì vậy, dân chúng có một ưu thế hiển nhiên trong việc tu luyện khí công. Hai chính pháp tu luyện khí công là Khí công Phật gia và Khí công Ðạo gia đã phổ truyền rất nhiều đại pháp mà chỉ được mật truyền trong quá khứ. Phương pháp tu luyện của Đạo Gia rất là độc đáo; và Phật Gia cũng có phương pháp tu luyện riêng của họ. Pháp Luân Công là một phương pháp tu luyện cao cấp của Phật Gia. Trong lớp học, trước tiên tôi sẽ điều chỉnh cơ thể của quý vị lên một trạng thái thích hợp cho việc tu luyện ở cấp cao, sau đó tôi sẽ gắn Pháp Luân và khí cơ (bộ máy khí) vào trong cơ thể của quý vị. Tôi cũng sẽ dạy các bài động tác cho quý vị. Ngoài ra tôi cũng có các Pháp thân sẽ theo bảo vệ quý vị. Nhưng có những điều đó thôi cũng chưa đủ, vì mục đích để phát triển công vẫn chưa đạt được. Nó còn đòi hỏi quý vị cũng phải hiểu rõ các nguyên lý tu luyện ở cấp cao. Ðây chính là mục đích của quyển sách này.
Tôi đang giảng về công ở cao tầng. Vì vậy tôi sẽ không bàn tới sự tu luyện về một mạch, một huyệt hay một kinh lạc đặc biệt nào hết. Tôi đang giảng về đại pháp để tu luyện, một đại pháp nhằm mục đích tu luyện thật sự về cao tầng. Lúc đầu nó có thể nghe như hoang đường, nhưng đối với những người dốc chí tu luyện khí công, xem xét kỹ lưỡng và chứng nghiệm bản thân, thì tất cả bí mật đều gói trọn trong đó.

1. Nguồn gốc của khí công

Khí công mà chúng ta nói đến ngày nay, thật ra, không được gọi là khí công lúc ban đầu. Nó có nguồn gốc từ sự tu luyện bí truyền của người Trung hoa thuở xưa, hay sự tu luyện trong tôn giáo. Qua các kinh sách về Ðan Kinh, Ðạo Tạng và Ðại Tạng Kinh, không bao giờ tìm thấy hai chữ "khí công" cả. Trong giai đoạn hiện tại của nền văn minh nhân loại đương thời, khí công đã trải qua thời kỳ ấu trĩ của tôn giáo. Nó đã hiện hữu trước khi tôn giáo được thành hình. Sau khi tôn giáo được thành lập, nó đã một phần bị pha trộn bởi tôn giáo. Danh xưng nguyên thủy của nó là "Ðại Pháp Tu Phật" hay là "Ðại Pháp Tu Ðạo". Hơn nữa, nó cũng có thời được mang tên như là "Kim Đan Cửu Chuyển", "La-Hán Pháp", "Thiền Kim Cang", v..v. Bây giờ chúng ta gọi là "khí công" để thuận theo ý thức hệ tân thời hơn và cũng để dễ dàng phổ biến trong xã hội. Khí công thật ra đã có mặt ở Trung hoa với mục đích rất thuần túy là tu luyện bản thân con người.
Khí công không phải do nhân loại của chúng ta phát minh ra. Nó có một lịch sử khá lâu dài và xa xôi trong quá khứ. Vậy chứ khi nào thì khí công được biết tới? Có người nói rằng khí công được thịnh hành dưới đời nhà Ðường và có một lịch sử khoảng ba ngàn năm. Có người nói rằng nó có một lịch sử khoảng năm ngàn năm, trải dài như nền văn minh Trung quốc. Có người nhận xét từ các di tích khảo cổ và cho rằng nó có một lịch sử khoảng bảy ngàn năm. Tôi thấy khí công không được phát minh ra bởi nhân loại đương thời. Nó thuộc về nền văn hóa tiền sử. Theo sự tra cứu của những người có công năng1, vũ trụ mà chúng ta đang sinh sống đây là một hợp thể sau chín lần bị nổ tung ra. Hành tinh chúng ta đang ở đã bị hủy diệt nhiều lần rồi. Sau mỗi lần như vậy trái đất đã được phối trí lại và nhân loại bắt đầu sinh xôi nảy nở trở lại. Hiện tại, chúng ta đã khám phá được nhiều điều trong thế giới tiến vượt xa nền văn minh đương thời. Dựa vào học thuyết tiến hóa của Darwin, con người tiến hóa từ loài khỉ, và nền văn minh không vượt quá mười ngàn năm trở lại. Nhưng các khám phá về di tích khảo cổ cho thấy trong các hang động ở dãy núi Alps (Bên Âu Châu có các bức vẽ trên vách đá đã xuất hiện cách đây khoảng 250,000 năm, mà giá trị nghệ thuật rất cao, vượt hẳn khả năng của người thời nay. Trong viện bảo tàng của Ðại Học Quốc Gia ở Peru có một tảng đá lớn khắc hình người cầm một viễn vọng kính đang quan sát các thiên thể. Hình này đã có cách đây trên 30,000 năm. Như quý vị biết, Ga-li-lê chế ra một kính viễn vọng để xem thiên văn với độ lớn 30 lần vào năm 1609, tức là chỉ cách đây hơn 300 năm. Làm sao có thể có một kính viễn vọng cách đây 30,000 năm được? Có một thanh sắt ở Ấn Ðộ mà chất sắt đạt đến một tỷ lệ 99 phần trăm ở trong đó. Kỹ thuật luyện kim tân thời không thể nào sản xuất được sắt với độ tinh khiết cao như vậy, vì nó đã vượt xa trình độ kỹ thuật tân thời. Ai đã tạo ra nền văn minh đó? Lúc đó loài người có lẽ chỉ là các sinh vật vi tế, vậy làm sao có khả năng sáng tạo ra các điều này? Các khám phá này gây chú ý cho các khoa học gia toàn thế giới. Vì không thể giải thích các điều này nên người ta gọi chung nó là nền “văn hoá tiền sử".

Trình độ khoa học khác biệt nhau ở mỗi thời kỳ, có thời kỳ nó tương đối cao, vượt xa trình độ nhân loại đương thời. Tuy vậy những nền văn minh đó đã bị hủy diệt. Vì lý do đó, tôi nói rằng khí công không được phát minh hay tạo ra bởi người thời nay, nhưng được người thời nay phát hiện và làm cho hoàn hảo hơn, nó thuộc về nền văn hóa tiền sử.
Khí công thật ra không chỉ là sản phẩm của xứ ta, nó cũng có mặt tại các nước khác. Tuy vậy nó không được gọi là khí công, các nước tây phương như là Hoa kỳ, Anh quốc,v..v gọi nó là ảo thuật. Có một ảo thuật gia ở Mỹ tên là David Cooperfield, thật ra anh ta có mang một số công năng, làm cho anh ta có thể biểu diễn màn đi xuyên qua bức Vạn Lý Trường Thành. Khi sắp sửa bước xuyên qua bức tường, anh ta dùng một tấm vải trắng để che anh ta lẫn bức tường lại, và rồi đi xuyên qua nó. Tại sao anh ta đã làm như vậy? Vì theo cách đó, phần lớn người ta sẽ nhìn nó như là một màn trình diễn ảo thuật. Nó phải được làm theo lối này vì anh ta biết rằng có rất nhiều cao nhân ở Trung quốc. Anh ta sợ sẽ bị ảnh hưởng bởi những người này, vì vậy anh ta đã tự che mình lại trước khi bước vào bức tường. Khi từ bức tường đi ra, anh ta dơ một tay ra kéo tấm vải lên trước và bước ra ngoài. Người Trung hoa có câu tục ngữ là: "Người trong cuộc mới hiểu rõ sự tình, còn người ngoài chỉ thấy sự náo nhiệt", theo lối này thì khán giả nghĩ rằng đó là một trò ảo thuật. Lý do họ gọi những công năng này là trò ảo thuật, vì họ không dùng nó để tu luyện thân thể, mà chỉ dùng để biểu diễn các phép thuật và trình diễn giúp vui trên sân khấu. Vì vậy, ở cấp thấp, khí công có thể làm thay đổi các trạng thái vật lý của thân thể con người, đạt đến mục đích chữa bệnh và giữ gìn sức khỏe (khu bệnh kiện thân); Ở cấp cao, khí công chính là tu luyện bản thể2.

2. Khí và công

“Khí” mà chúng ta nói đến hiện nay đã được người thời xưa gọi là “Khí”. Cả hai trong cốt tủy của nó đều ám chỉ khí của vũ trụ, tức là một loại vật chất vô hình vô tướng trong vũ trụ. Nó không liên hệ gì đến khí trong không khí. Qua sự tu luyện, năng lượng của chất liệu này trong cơ thể con người sẽ trở nên hoạt động, làm thay đổi trạng thái vật lý của cơ thể, đạt đến tác dụng để trừ bệnh và khỏe mạnh. Nhưng khí vẫn chỉ là khí. Quý vị có khí, người khác cũng có khí. Khí với khí không có tác dụng kiềm chế lẫn nhau. Có người cho rằng khí có thể trị bệnh được; hay cho rằng quý vị có thể phát khí ra để trị bệnh cho người nào đó. Các lời này rất phản khoa học, vì từ căn bản khí không thể chữa được bệnh tật gì hết. Khi người luyện công vẫn còn mang khí trong mình, có nghĩa là họ chưa đạt đến trạng thái Thân Trắng Như Sữa (Nãi Bạch Thể), tức là họ vẫn còn mang bệnh tật trong người.
Một người luyện công đến trình độ cao không phát khí, thay vào đó họ phát ra một chuỗi cao năng lượng, chất cao năng lượng này thể hiện dưới hình thức ánh sáng với các hạt vi tử rất mịn và rất đậm đặc. Ðây là công, chỉ khi đó nó mới có tác dụng kiềm chế người thường, mới có thể chữa bệnh cho họ. Có câu châm ngôn như thế này: "Phật quang phổ chiếu, lễ nghĩa viên minh". Nó có nghĩa là người tu luyện theo chính pháp mang năng lượng thật to lớn trên mình họ, bất kỳ nơi nào họ đi qua, họ có thể điều chỉnh bất cứ tình trạng bất thường nào đó trong vùng ảnh hưởng bởi năng lượng của họ và thiết lập lại trạng thái bình thường. Chẳng hạn như bệnh tật trong cơ thể con người chỉ là điều kiện bất bình thường đang xảy ra trong cơ thể đó, các bệnh tật sẽ hết sau khi tình trạng này được sửa chữa. Nói rõ hơn nữa công chính là năng lượng. Công có các biểu hiện vật chất, qua sự tu luyện, người luyện công có thể kinh nghiệm và nhận xét được sự tồn tại khách quan của nó.

3. Công lực và công năng

(1) Công lực do sự tu luyện tâm tính mà có

Cái công3 thật sự quyết định cấp bậc công lực4 của một người không đến từ sự tập luyện các động tác, nó đến từ sự chuyển hóa của chất "đức" và từ sự tu luyện tâm tính. Quá trình chuyển hóa này không phải là thành quả của việc bắc nồi đặt lò (an đỉnh thiết lư), sắt thuốc luyện đan (thái dược luyện đan) như người thường tưởng tượng ra. Cái công mà chúng tôi nói ra đây được sinh sản phía bên ngoài của cơ thể, bắt đầu từ phân nửa dưới của cơ thể, tùy theo sự nâng cao tâm tính nó phát triển lên phía trên theo hình xoắn ốc, và được tạo thành trọn vẹn ở phía ngoài cơ thể, sau đó nó phát triển thành ra một cột trụ công (công trụ) ở trên đỉnh đầu. Cột trụ công cao đến đâu quyết định công của một người cao đến đó. Cột trụ công hiện hữu trong một không gian được giấu kín và rất sâu thẳm nên người thường không dễ gì nhìn thấy nó được.
Công năng5 được gia tăng sức mạnh bởi công lực, công lực càng cao và cấp bậc của một người càng cao thì công năng của một người càng mạnh và càng dễ vận dụng những quyền năng này; Người với công lực thấp có các công năng nhỏ hơn, khó vận dụng chúng hơn, thậm chí không thể vận dụng được. Công năng tự nó không biểu hiện cấp bậc công lực của một người hay là trình độ tu luyện của một người. Công lực là yếu tố quyết định trình độ của một người chứ không phải là công năng. Một số người tu theo phương thức "khóa kín", công lực của họ rất cao, nhưng không nhất định có nhiều công năng. Công lực là yếu tố quyết định, và do sự tu luyện tâm tính mà có. Ðây là điều then chốt nhất.

(2) Công năng không phải điều mà người luyện công theo đuổi

Mọi người luyện công đều quan tâm đến công năng, các phép thần thông rất lôi cuốn và hấp dẫn trong xã hội, và nhiều người muốn có nó. Nhưng nếu tâm tính không tốt, người ta sẽ không có thể có được những quyền năng này.
Vài công năng có thể được sở hữu bởi người thường, như khai mở thiên mục, thiên nhĩ, thần giao cách cảm và biết trước tương lai. Nhưng những quyền năng nay thay đổi tùy theo mỗi cá nhân, chúng nó không thể hiện ra cùng một lượt trong trạng thái tiệm ngộ (giác ngộ từ từ). Vài công năng không thể nào được ban cho người thường, chẳng hạn như việc biến chuyển một loại vật thể trong không gian vật lý này thành ra một loại vật thể khác, đây không phải là thứ mà người thường có thể có được. Các công năng vĩ đại có được nhờ sự tu luyện trước từ tiền kiếp. Pháp Luân Công phát triển thuận theo các luật của vũ trụ, vì vậy các công năng nào có trong vũ trụ cũng đều có trong Pháp Luân Công, tất cả đều tùy thuộc vào cách thức tu luyện của người luyện công. Ý nghĩ để có được vài công năng không bị xem là sai trái, tuy vậy, đeo đuổi theo chúng một cách quá trớn không được xem như một tư tưởng bình thường và sẽ sinh ra các hậu quả xấu. Công năng không được sử dụng nhiều cho lắm khi đạt được ở cấp thấp, trừ phi sử dụng chúng để biểu diễn khả năng của người đó trước mặt các người thường khác và trở thành người trội hơn giữa đám đông. Trong trường hợp này, nó cho thấy tâm tính của người đó không cao lắm và đúng ra không nên cấp công năng cho người đó. Vài công năng nếu giao cho người với tâm tính xấu có thể được sử dụng để làm điều sai trái, vì tâm tính của họ không chín chắn nên không bảo đảm là họ sẽ không làm điều xấu.
Nhìn từ một khía cạnh khác bất cứ công năng nào có thể tiết lộ và biểu diễn thì không thể được sử dụng để thay đổi xã hội loài người hay là để sửa đổi sinh hoạt bình thường trong xã hội. Những công năng thứ thiệt không được phép tiết lộ và biểu diễn, vì tầm ảnh hưởng và sự nguy hiểm quá rộng lớn. Chẳng hạn như là người ta không được biểu diễn phá sập một tòa nhà lầu lớn. Nhất là đối với các quyền năng vĩ đại, trừ phi những người mang sứ mạng đặc biệt, các công năng vĩ đại đều không được cho phép sử dụng, cũng như không có thể tiết lộ chúng vì các thượng sư khống chế việc này.
Tuy nhiên một số người thường nài nỉ các thầy khí công biểu diễn, bắt buộc họ tiết lộ các công năng để cho các người này có thể trông thấy. Người có công năng thường không muốn sử dụng chúng để biểu diễn, vì họ không được phép tiết lộ chúng ra, đem chúng ra sử dụng sẽ có tầm ảnh hưởng đến tình trạng của toàn xã hội. Người chân chính với nhiều đức tính tốt không được phép sử dụng các công năng của họ nơi công cộng. Vài thầy khí công cảm thấy rất khó chịu trong lúc trình diễn, sau khi trở về nhà họ muốn khóc thét lên. Xin đừng buộc họ phải biểu diễn! Họ sẽ cảm thấy rất bối rối khi phải tiết lộ những thứ đó. Tôi thấy rất ác cảm khi đọc một tạp chí mà một học viên đang cầm trên tay. Nó đề cập tới một hội nghị khí công quốc tế đang được tổ chức, người có công năng có thể tham dự một cuộc đọ sức, người nào có quyền năng mạnh nhất có thể đi dự hội nghị đó. Sau khi đọc xong, tôi cảm thấy rất khó chịu trong nhiều ngày. Ðây không phải là điều có thể được tiết lộ giữa công chúng để tranh tài, trình diễn chúng nơi công cộng là điều thật đáng tiếc. Người thường mà, họ chú trọng đến những điều thực tế trong thế gian này, nhưng những thầy khí công phải biết tự trọng.
Ham muốn những công năng với mục đích gì? Nó phản ảnh cảnh giới của tư tưởng và sự mong cầu của người luyện công, tư tưởng không chính đáng, không chín chắn, nên không thể đạt được các công năng cao. Ở đây có một nguyên nhân, là vì trước khi quý vị được hoàn toàn giác ngộ, điều tốt hay xấu mà quý vị nhìn thấy chỉ là dựa trên các tiêu chuẩn pháp của thế gian này, quý vị không thể nhận ra bản chất thật sự của mọi vật, không thể thấy các quan hệ nhân duyên giữa các sự việc. Ấu đả, mắng chửi và bắt nạt nhau giữa người thường do các liên hệ nhân duyên mà ra, nếu không hiểu thấu điều đó quý vị có thể chỉ làm cho rối ren thêm. Chuyện ân oán, thị phi của người đời, đã có pháp của thế gian lo rồi, người luyện công không nên dính vào. Vì trước khi quý vị đạt đến giai đoạn giác ngộ trọn vẹn, những gì mắt quý vị thấy không nhất thiết là sự thật. Khi một người đấm đá một người khác, có lẽ là họ đang giải quyết món nợ nhân quả6 của họ, sự can thiệp của quý vị có thể làm trở ngại việc thanh toán món nợ của họ. Nghiệp là chất đen bao quanh cơ thể con người, nó là một vật chất hiện hữu trong một không gian khác mà có thể được chuyển hóa thành ra bệnh tật hay tai họa.
Mọi người đều có công năng, vấn đề là phải khai thác và gia tăng sức mạnh của chúng qua sự tu luyện liên tục. Là người luyện công, nếu chỉ mong cầu đạt được các công năng thì người đó có cái nhìn thiển cận, tư tưởng không trong sạch, không kể người đó muốn công năng để làm gì, nó hàm chứa sự ích kỷ mà nhất định sẽ cản trở việc luyện công, kết quả là người đó không đạt được bất kỳ quyền năng nào.

(3) Cách sử dụng công lực

Có người luyện công chưa tập luyện lâu cho lắm, nhưng họ muốn chữa bệnh cho người khác, muốn thử xem nó có kết quả không. Ðối với những người mà công lực của họ chưa cao cho lắm, khi quý vị đưa tay ra và thử chữa bệnh, quý vị thu hút một khối lượng chất đen lớn, tức là khí bệnh, khí dơ bẩn, từ cơ thể của bệnh nhân sang cơ thể của mình. Vì quý vị không có năng lực để phòng chống lại khí bệnh, và hơn nữa cơ thể của quý vị chưa có tấm chắn bảo vệ, quý vị ở trong cùng vùng ảnh hưởng (trường) với bệnh nhân, không có một công lực thật cao quý vị sẽ không thể nào tự bảo vệ được, kết quả là quý vị sẽ cảm thấy rất là khó chịu. Nếu không có người độ cho quý vị, một thời gian sau, quý vị sẽ mang bệnh tật đầy mình. Cho nên người không có công lực cao, không nên trị bệnh cho người khác. Trừ phi quý vị đã phát triển được các công năng và đạt được một trình độ công lực nào đó, thì quý vị có thể dùng khí công để chữa bệnh. Ngay cả một số người đã phát triển công năng và có thể chữa bệnh, khi ở cấp thật thấp, thật ra họ đã sử dụng công lực tích tụ được để chữa bệnh, tức là dùng năng lực của chính mình để chữa bệnh. Vì công là năng lượng và cũng là một linh thể mà không dễ gì thu thập được, nên phát công ra thật sự sẽ làm tiêu hao công của quý vị đi. Kèm theo sự phát công của quý vị, cột trụ công trên đầu của quý vị sẽ ngắn lại và tiêu hao bớt đi, điều này quả không đáng làm chút nào. Vì vậy tôi không chủ trương việc trị bệnh cho người khác khi công lực của quý vị chưa được cao cho lắm. Không kể thủ pháp của quý vị cao đến đâu, quý vị vẫn làm tiêu hao năng lượng của chính mình.
Khi công lực của quý vị đã đạt đến một trình độ nào đó, đủ loại công năng sẽ xuất hiện. Khi sử dụng các công năng này quý vị cần phải rất cẩn thận. Chẳng hạn như người ta phải sử dụng Thiên mục khi nó đã khai mở vì nó sẽ đóng lại nếu quý vị không bao giờ sử dụng nó. Tuy vậy quý vị không được nhìn bằng thiên mục thường xuyên. Nếu sử dụng nó quá thường xuyên, rất nhiều năng lượng sẽ bị mất đi. Vậy có phải là quý vị đừng bao giờ sử dụng nó? Dĩ nhiên là không. Nếu chúng ta không bao giờ có thể dùng nó vậy chúng ta tu luyện nó để làm gì? Vấn đề là khi nào sử dụng nó. Chỉ khi nào quý vị tu luyện đến một trình độ nào đó và có khả năng tự bổ xung năng lực trở lại thì quý vị có thể sử dụng nó. Khi người tu theo Pháp Luân Công đạt đến một trình độ nào đó, Pháp Luân có thể chuyển hóa tự động và cung cấp trở lại không kể bao nhiêu công mà người đó phát ra. Pháp Luân tự động duy trì mức độ công lực cho người luyện công. Công không có giảm đi bất cứ lúc nào. Ðây là đặc điểm của Pháp Luân Công. Chỉ đến lúc này mới có thể sử dụng các công năng.

4. Thiên mục

(1) Khai mở thiên mục 7

Lối thông ra (thông đạo) chính của thiên mục nằm giữa trung tâm của trán và sơn căn8. Cách người thường nhìn thấy với mắt phàm cũng giống như nguyên tắc chụp hình với máy ảnh. Tùy theo khoảng cách giữa vật thể và cường độ ánh sáng, cùng với sự điều chỉnh của ống kính hay kích thước của con ngươi, hình ảnh được tạo thành bởi các thần kinh thị giác trên tuyến tùng quả9 nằm ở phân nữa phía sau của đại não. Công năng nhìn xuyên thấu thật ra là trực tiếp sử dụng tuyến tùng quả nhìn thẳng ra bên ngoài thông qua thiên mục. Thiên mục của một người trung bình không thông vì khe hở của lối thông ra chính rất là chật hẹp, rất đen tối, không có chút linh khí, không phát quang. Lối thông ra của một số người bị tắt nghẽn vì vậy họ không có thể thấy được.
Ðể khai mở thiên mục, trước hết chúng ta dùng sức mạnh ở bên ngoài hay là sức mạnh tự tu luyện được để khai mở lối thông ra. Hình dạng của lối thông ra thay đổi tùy mỗi cá nhân và nó có dạng như hình bầu dục, hình tròn, hình thoi và hình tam giác, người luyện thật giỏi thì lối thông ra rất tròn. Thứ nhì là vị thầy ban cho một con mắt, nếu tự mình tu luyện thì phải tự tạo nên con mắt này. Thứ ba là phải có tinh hoa khí ở vị trí của thiên mục.
Thông thường chúng ta thấy được nhờ sử dụng cặp mắt này, đúng ra là hai mắt này ngăn chặn lối thông ra của chúng ta vào các không gian khác. Nó vận hành như là một tấm chắn, vì vậy chúng ta chỉ có thể nhìn thấy các đồ vật hiện hữu trong không gian vật chất của chúng ta mà thôi. Sự khai mở thiên mục cho phép người ta nhìn thấy mà không cần sử dụng hai mắt này. Sau khi đạt đến một trình độ rất cao, quý vị cũng có thể tu có được một chân nhãn. Rồi thì quý vị có thể sử dụng chân nhãn của thiên mục hay là chân nhãn ở nơi sơn căn để nhìn. Theo Phật Gia thì mỗi lỗ chân lông là một con mắt, có mắt ở trên khắp cơ thể con người. Theo Đạo Gia thì mỗi điểm huyệt (huyệt vị) là một con mắt. Tuy vậy lối thông ra chính là thiên mục, nó phải được khai mở trước tiên. Trong lớp học tôi đã gắn cho mọi người những thứ để có thể khai mở thiên mục. Vì cơ thể của mỗi người có tố chất khác nhau nên hiệu quả cũng không như nhau. Có người thấy một lỗ đen tương tự như một cái giếng sâu, điều này có nghĩa là lối thông ra của thiên mục màu đen. Có người thấy lối thông ra màu trắng, thiên mục sắp được mở nếu thấy đồ vật ở trước đường hầm này. Có người thấy đồ vật quay vòng, đấy là những thứ Thầy gắn cho để khai mở thiên mục. Quý vị sẽ có thể nhìn thấy một khi thiên mục được khai thông hoàn toàn. Có người có thể nhìn thấy một con mắt lớn qua thiên mục của họ và nghĩ rằng đó là mắt Phật. Thật ra đó chính là mắt của họ. Ðây thường là những người có căn cơ bẩm sinh (tiên thiên) tương đối tốt.
Theo thống kê của chúng tôi, trong mỗi lớp học có hơn phân nửa người có thiên mục được khai mở. Một vấn đề được nêu ra khi thiên mục mở là người với tâm tính không cao lắm có thể dễ dàng sử dụng nó để làm điều xấu. Ðể tránh vấn đề này, tôi mở thiên mục của quý vị thẳng đến cấp huệ nhãn thông, nói khác đi là mở đến một cấp cao để cho phép quý vị thấy trực tiếp các cảnh vật ở các không gian khác và để nhìn thấy những thứ có thể sẽ xuất hiện trong lúc tu luyện để tạo thêm niềm tin cho quý vị, làm cho niềm tin vào sự luyện công thêm vững chắc hơn. Người vừa mới bắt đầu luyện công thì tâm tính của họ chưa thể đạt đến cao độ của người siêu thường. Nên khi họ có được những điều siêu phàm, nó rất dễ để họ làm những điều sai trái. Lấy một thí dụ vui vui là nếu quý vị đi ngoài đường và gặp quầy bán vé sổ số, quý vị có thể rời đó với một giải nhất. Ðiều này cắt nghĩa điều tôi muốn nói. Nó không được phép xảy ra như vậy. Một lý do khác nữa là hãy xét sự khai mở thiên mục của chúng ta ở đây trong một phạm vi rộng lớn. Thí dụ như thiên mục của mọi người được mở ở một cấp thấp, hãy chỉ tưởng tượng rằng nếu mọi người có thể trông thấy xuyên qua cơ thể con người, hay là có thể thấy các đồ vật phía sau bức tường; chúng ta còn có thể gọi đây là xã hội người thường nữa không? Nó sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến trạng thái của xã hội người thường, do đó, nó không được phép cũng như không được thực hiện. Hơn nữa, nó không đem lại lợi ích gì cho người luyện công, và chỉ dung túng thêm sự ràng buộc10 của người luyện công. Vì lý do đó, chúng tôi không mở thiên mục cho quý vị ở một cấp thấp, thay vào đó chúng tôi mở nó trực tiếp ở cao tầng.

(2) Các cấp bậc của thiên mục

Thiên mục có nhiều cấp bậc khác nhau. Tùy theo cấp bậc, nó trông thấy các cõi giới khác nhau. Theo Phật giáo có năm cấp bậc11 là: Nhục Nhãn Thông, Thiên Nhãn Thông, Huệ Nhãn Thông, Pháp Nhãn Thông và Phật Nhãn Thông. Mỗi cấp bậc lại chia ra thành các cấp phụ là thượng, trung và hạ. Ở các cấp từ thiên nhãn thông trở xuống, nó chỉ quan sát được thế giới vật chất của chúng ta. Chỉ ở các cấp từ huệ nhãn thông trở lên nó sẽ có thể quan sát các không gian khác. Một số người có công năng xuyên thấu12, nhìn còn chính xác hơn các Máy Tạo Hình (Quét ảnh C.T). Tuy nhiên, những gì họ có thể trông thấy vẫn còn nằm trong thế giới vật chất này và chưa vượt khỏi không gian mà chúng ta đang ở. Nó không thể được xem như đã đạt đến một trình độ cao cấp về thiên mục.
Cấp bậc của thiên mục tùy thuộc vào số lượng tinh hoa khí của một người cũng như bề rộng, độ sáng và góc độ cản trở của lối thông ra chính. Tinh hoa khí ở bên trong là điều then chốt để xem thiên mục có thể được mở trọn vẹn chưa. Ðiều đặc biệt là rất dễ mở thiên mục cho trẻ em dưới 6 tuổi. Ngay cả tôi không cần dùng tay nữa; nó mở ngay lập tức khi tôi bắt đầu nói vì trẻ em tiếp nhận rất ít ảnh hưởng xấu trong thế giới vật chất này của chúng ta và chưa phạm phải lỗi lầm nào hết. Tinh hoa khí của chúng được giữ gìn rất tốt. Ðối với trẻ em trên 6 tuổi, thiên mục của chúng càng khó mở hơn vì do nơi các ảnh hưởng xấu từ bên ngoài càng gia tăng khi chúng lớn lên. Ðặc biệt nữa là với một nền giáo dục không tốt, bại hoại, và trở thành đồi bại có thể làm cho tất cả tinh hoa khí tan biến mất. Sau khi tuột dốc đến mức độ nào đó, nó sẽ biến mất đi. Những người mà tinh hoa khí hoàn toàn mất hẳn đi có thể dần dần khôi phục lại qua việc luyện công, nhưng nó đòi hỏi nhiều thời gian và nhiều cố gắng hơn. Cho nên tinh hoa khí rất là quý báu.
Tôi không chủ trương mở thiên mục ở cấp thiên nhãn thông, vì khi công lực của người luyện công còn thấp, họ sẽ bị mất nhiều năng lượng khi sử dụng thiên mục hơn là năng lượng thu thập được qua sự luyện công. Nếu linh khí bị mất nhiều quá, thiên mục có thể bị đóng lại lần nữa, một khi nó đóng lại thì sẽ không dễ gì mà mở nó lại lần nữa. Vì vậy khi tôi mở thiên mục cho ai, tôi thường mở nó ở cấp huệ nhãn thông. Các người tu luyện sẽ có thể thấy các cảnh vật của các không gian khác mặc dầu có thể thấy rõ hay mờ. Do ảnh hưởng của các điều kiện bẩm sinh (tiên thiên), có người có thể thấy được rõ ràng, có người thấy lúc ẩn lúc hiện; có người không thấy được rõ ràng, tuy nhiên ít ra quý vị cũng có thể thấy được ánh sáng. Vì vậy nó mang lại ảnh hưởng tốt cho người luyện công để phát triển lên trình độ cao hơn nữa. Những người không thấy rõ ràng sẽ có thể khá hơn qua sự luyện công.
Những người thiếu chất tinh hoa khí chỉ thấy các hình ảnh trắng đen khi nhìn bằng thiên mục. Ðối với những người tương đối có nhiều tinh hoa khí hơn, thiên mục của họ sẽ có thể thấy các cảnh vật bằng màu sắc và hình dạng rõ ràng hơn. Càng có nhiều tinh hoa khí thì càng nhìn thấy rõ ràng hơn. Tuy nhiên, mỗi cá nhân đều khác nhau. Có người bẩm sinh thiên mục đã mở, trong khi một số người khác bị đóng rất chặt. Khi thiên mục đang mở ra, nó giống như cái bông đang nở từng lớp này đến lớp khác. Trong lúc ngồi thiền, lúc khởi đầu quý vị sẽ phát hiện thiên mục có một đóm sáng, lúc bắt đầu, cái đóm này không sáng chói cho lắm, và sau đó chuyển sang màu đỏ. Có người thiên mục bị đóng gắt quá nên phản ứng lúc đầu của họ cũng rất mạnh mẽ. Họ sẽ cảm thấy các bắp thịt chung quanh lối thông ra chính và vùng sơn căn đang căng phồng lên như bị ép và bóp chặt về phía bên trong. Hai bên thái dương và trước trán của họ bắt đầu cảm thấy như phồng to lên và đau nhức do các phản ứng của sự khai mở thiên mục. Người có thiên mục dễ mở đôi khi có thể thấy điều gì đó. Trong lớp học, có người tình cờ thấy được pháp thân của tôi. Khi họ cố gắng nhìn chăm chú hơn thì nó biến mất. Thật ra, họ đã sử dụng mắt thịt của họ. Quý vị phải giữ yên trạng thái khi trông thấy điều gì với đôi mắt khép lại, và dần dần quý vị sẽ thấy chúng rõ hơn. Khi quý vị muốn thấy gần hơn nữa, quý vị đã thật sự chuyển qua nhìn bằng mắt thịt của mình và sử dụng các thần kinh thị giác. Khi đó, quý vị sẽ không thể thấy được gì hết.
Thiên mục ở các cấp bậc khác nhau có thể nhận thức được các cõi khác nhau. Một số cơ sở nghiên cứu khoa học không hiểu đạo lý này và kết quả là vài cuộc thí nghiệm về khí công không đạt được hiệu quả mong muốn. Nhiều lần các thí nghiệm ngay cả dẫn đến kết quả ngược lại. Chẳng hạn như có một đơn vị thiết kế một phương pháp để trắc nghiệm các công năng, họ yêu cầu các thầy khí công nhìn vào trong một hộp đậy kín. Vì cấp bậc thiên mục của những thầy khí công này không giống nhau, nên các câu trả lời kết quả trắc nghiệm của họ cũng không giống nhau. Vì vậy, các nhân viên làm trắc nghiệm cho thiên mục là sai lầm, họ có cái nhìn lệch lạc. Thông thường người có thiên mục mở ở cấp thấp đạt được kết quả khả quan hơn với loại thí nghiệm này, vì thiên mục của họ mở ở cấp thiên nhãn thông, rất thích hợp để chỉ quan sát các đồ vật trong không gian vật chất này. Vì vậy người không hiểu rõ thiên mục nghĩ rằng những người này có các công năng tối cao. Tất cả các vật thể, bất luận vật hữu cơ hay vô cơ, hiện ra với hình dáng khác nhau trong các không gian khác nhau. Chẳng hạn cái ly thủy tinh khi vừa được chế tạo ra, thì đồng thời có một linh thể sinh ra ở một không gian nào đó. Hơn nữa, ngay cả trước khi linh thể này xuất hiện, nó có thể có điều gì khác nữa. Với thiên mục ở cấp thấp nhất, người ta sẽ thấy lớp thủy tinh. Ở một cấp cao hơn, người ta sẽ thấy một linh thể hiện diện trong một không gian khác. Ở một cấp cao hơn nữa, người ta sẽ thấy hình thức của vật chất trước khi có sự xuất hiện của linh thể.

(3) Công năng dao thị

Sau khi mở thiên mục, có người có được công năng dao thị (công năng thấy xa), họ có thể nhìn thấy các đồ vật ở cách xa ngàn dặm. Mỗi cá nhân chiếm cứ khoảng không gian riêng của họ và nó cũng rộng lớn bằng kích thước của vũ trụ, trong khoảng không gian riêng biệt13 này, họ có một tấm gương trước trán, nhưng không thấy được trong cõi không gian của chúng ta. Mọi người đều có tấm gương này, chỉ là người không luyện công thì nó quay vào trong, người luyện công thì tấm gương này từ từ quay chung quanh trục của nó. Khi quay tấm gương này có thể phản chiếu những gì người đó muốn thấy. Trong cõi không gian riêng biệt này, người đó tương đối to lớn, cơ thể của họ khá lớn và tấm gương này cũng thật lớn. Bất cứ cái gì người tu muốn nhìn thấy có thể được phản chiếu lại trên tấm gương. Tuy vậy một khi tấm gương ghi nhận được hình ảnh, người đó cũng chưa có thể thấy nó được. Hình ảnh sẽ lưu lại trên tấm gương trong khoảnh khắc, xong rồi tấm gương sẽ quay nữa, làm cho quý vị thấy được hình ảnh của đồ vật hiện trên đó. Nó sẽ lật trở lại thật mau. Nó quay lui và tới không ngừng nghỉ. Phim chớp bóng di động 24 hình trong một giây để đạt được động tác liên tục. Tốc độ mà tấm gương lật qua còn mau hơn đó nữa, vì vậy, các hình ảnh dường như liên tục và rõ ràng. Ðây là dao thị. Nguyên tắc của dao thị thật là đơn giản. Ðiều này vẫn được giữ thật bí mật, tuy vậy tôi tiết lộ nó với chỉ vài hàng.

(4) Các cõi không gian

Không gian, dựa vào những điều chúng ta trông thấy, quả thật là phức tạp. Nhân loại chỉ biết không gian mà con người hiện đang sống, và các cõi không gian khác thì chưa được thám hiểm hay là khám phá tới. Nói về những điều đến từ các không gian khác, các thầy khí công của chúng ta đã nhìn thấy hàng tá các cấp bậc không gian khác nhau và cũng có thể dùng lý luận để giải thích sự hiện hữu của nó, nhưng khoa học không thể chứng thực được. Có một số điều, ngay cả nếu quý vị không chấp nhận sự hiện hữu của chúng, nhưng chúng vẫn được phản ánh một cách trung thực trong không gian của chúng ta. Chẳng hạn như có một nơi gọi là quần đảo Bermuda, hay còn được mệnh danh là "vùng tam giác quỷ", một số tàu bè đã biến mất trong vùng này, một số máy bay cũng mất tích luôn, và sau đó lại xuất hiện trở lại vài năm sau đó. Không ai có thể giải thích được nguyên nhân, không ai đi quá giới hạn của các tiến trình suy nghĩ và lý luận của con người. Thật ra, nó là một đường đi vào một không gian khác. Không giống như cánh cửa bình thường của chúng ta với một vị trí cố định, nó ở một trạng thái không ổn định. Nếu chiếc tàu nào tình cờ đi vào khi cánh cửa được mở, nó có thể đi vào cõi không gian khác rất dễ dàng. Con người không thể cảm nhận được sự khác biệt giữa các không gian, và họ đi vào trong một không gian khác trong nháy mắt. Khoảng cách giữa các không gian không thể nào được diễn đạt bằng dặm, như là cách xa hàng ngàn dặm. Mọi thứ đều hội tụ vào một điểm nơi đây. Các không gian khác nhau thật sự xảy ra cùng nơi chốn và cùng thời gian. Chiếc tàu nhảy vào trong một chốc lát và trở ra lại do sự tình cờ thôi. Tuy vậy, nhiều năm đã trôi qua trong thế giới này vì thời gian khác nhau ở hai cõi không gian này. Có nhiều thế giới đồng nhất14 hiện hữu trong mỗi không gian, tương tự như mô hình của các cấu trúc nguyên tử, một quả cầu được nối liền với quả cầu khác bằng một đoạn thẳng và rất nhiều quả cầu lẫn nhiều đoạn thẳng liên kết với nhau như vậy, nó quả thật là phức tạp.
Bốn năm trước kỳ thế chiến tranh thế giới lần thứ 2, một phi công người Anh đang thi hành một công tác. Khi đang bay giữa chừng, anh ta đụng phải một cơn bão táp rất lớn. Dựa theo kinh nghiệm, anh ta tìm gặp một phi trường bỏ hoang. Vừa lúc phi trường xuất hiện trước mắt anh ta, một hình ảnh hoàn toàn khác hẳn đến trong tầm nhìn của anh ta, nó bỗng nhiên nắng chói và không có chút mây nào như thể anh ta vừa mới hiện ra từ một thế giới khác. Các máy bay đậu ở phi trường này sơn màu vàng, và người ta đang bận rộn làm việc trên mặt đất, anh ta có cảm giác rất lạ! Sau khi hạ cánh, không ai nhận ra anh ta. Ngay cả đài kiểm soát không lưu cũng không có liên lạc với anh ta. Người phi công quyết định rời khỏi nơi đó vì trời đã tạnh bão. Anh ta bay trở lại, và lúc tới cùng khoảng cách mà anh ta thấy phi trường này phút chốc trước đó, anh ta lại đâm đầu vào cơn bão táp một lần nữa. Cuối cùng anh ta xoay trở để ra khỏi nơi đó. Khi anh ta báo cáo tình trạng này và anh ta cũng ghi xuống trong sổ phi hành, cấp trên của anh ta không tin chuyện đó. Bốn năm sau đó, thế chiến thứ hai bùng nổ. Anh ta được thuyên chuyển đến cái phi trường bỏ hoang đó. Anh ta lập tức nhớ lại cảnh tượng xảy ra giống hệt như điều mà anh ta đã thấy bốn năm về trước. Các thầy khí công của chúng ta tất cả đều biết những thứ đó là gì. Anh ta đã làm cùng việc đó bốn năm sớm hơn là anh ta phải làm sau đó. Trước khi bắt đầu hành động, anh ta đã đến đó và diễn xuất vai trò của mình trước, và xong rồi trở lại làm đúng theo thứ tự.

5. Trị bệnh bằng khí công và trị bệnh ở nhà thương

Theo lý thuyết, cách trị bệnh bằng khí công hoàn toàn khác hẳn cách chữa trị nơi nhà thương. Cách chữa trị của tây y dùng các phương pháp của người thường trong xã hội. Mặc dầu với các phương tiện chẩn bệnh và cách khám nghiệm bằng tia X Quang, họ chỉ có thể quan sát những vùng bị bệnh trong không gian này mà thôi và không thể nào thấy được những tín hiệu15 từ các cõi không gian khác, vì vậy họ không hiểu được nguyên nhân của bệnh tật. Nếu như người bệnh không bệnh nặng quá, thuốc men có thể chặn đứng được hay là ngay cả trị tận gốc của mầm bệnh (đó là vi khuẩn16 theo tây y và nghiệp theo khí công). Trong các trường hợp bệnh nặng, thuốc men sẽ trở thành kém hiệu lực. Nếu gia tăng lượng thuốc lên, con bệnh có thể không có khả năng hấp thụ nó. Vì không phải tất cả mọi bệnh tật đều phải tuân theo các định luật của thế gian này, một số bệnh rất nặng vượt quá khuôn khổ của thế gian này. Vì lý do đó nhà thương không đủ khả năng để chữa trị chúng.
Trung y là khoa y học truyền thống của xứ ta (Trung quốc), và nó không có cách biệt với các công năng mà con người tu luyện được. Người thời xưa rất chú trọng đến sự tu luyện bản thân con người. Nho Gia, Đạo Gia và Phật Gia kể cả các môn sinh của Khổng Tử, tất cả đều nói về tọa thiền17. Tọa thiền được xem là một khả năng khéo léo. Ngay cả họ không có thực hành tu luyện, theo dòng thời gian, họ vẫn phát được công và các công năng. Tại sao ngành châm cứu của Trung Y khám phá ra các kinh lạc trong cơ thể con người thật rõ ràng? Tại sao các điểm huyệt châm cứu không nối liền nhau theo chiều ngang? Tại sao chúng nó cũng không đụng chéo nhau? Hay là tại sao chúng nó nối liền nhau theo chiều dọc? Tại sao chúng nó được vẽ lại thật chính xác? Người thời nay với các công năng có thể nhìn thấy bằng chính mắt của họ những gì đã được phát họa bởi các thầy thuốc Trung Hoa. Ðó là vì các danh y thời xưa nói chung đều có các công năng. Trong lịch sử Trung hoa, Lý Thời Trân, Tôn Tư Mạc, Biển Thước và Hoa Ðà thật ra tất cả đều là các đại sư khí công có mang các công năng. Trung y được truyền đến ngày nay, đã thất lạc phần liên hệ đến các công năng và chỉ còn giữ lại các phần về kỹ thuật. Trong quá khứ, các thầy thuốc Trung Hoa sử dụng mắt (gồm cả các công năng đặc dị) để xác định bệnh, sau đó họ chế ra các phương pháp bắt mạch. Nếu các công năng được thêm vào cách chữa trị của Trung y như thuở xưa, có thể nói rằng tây y có lẽ khó mà bắt kịp Trung y của Trung quốc trong nhiều năm sắp tới.
Cách chữa bệnh bằng khí công trừ tận gốc của mầm bệnh. Tôi xem bệnh tật như là một thứ nghiệp. Trị bệnh nhằm giúp để tiêu trừ nghiệp. Một số thầy khí công trị bệnh bằng cách loại bỏ chất khí màu đen 18khỏi cơ thể, sử dụng phương pháp đuổi khí thêm khí19. Ở cấp rất thấp, họ loại bỏ chất khí đen. Tuy vậy, họ không biết gốc rễ của chất khí đen này. Khi chất khí đen này trở lại thì cơn bệnh cũng tái xuất hiện. Thật ra chất khí đen này không phải nguyên nhân của cơn bệnh. Khi chất khí đen này xuất hiện trở lại thì cơn bệnh cũng xuất hiện trở lại. Sự hiện diện của khí đen chỉ làm cho bệnh nhân khó chịu. Nguyên nhân căn bản của bệnh tật là do một linh thể trú ngụ ở một không gian khác gây ra. Nhiều thầy khí công không biết điều này. Vì các linh thể rất hung dữ, người thường không thể đụng đến nó, cũng như không làm cho nó cảm động đuợc. Chữa bệnh bằng Pháp Luân Công chú trọng cũng như bắt đầu từ linh thể đó để tiêu diệt tận gốc của cơn bệnh. Hơn thế nữa, một tấm chắn được gắn nơi đó để cho con bệnh không thể xâm nhập trở lại trong tương lai.
Khí công có thể chữa bệnh nhưng không thể can thiệp vào tình trạng của xã hội bình thường. Nếu được sử dụng một cách quy mô, nó có lẽ gây trở ngại cho tình trạng của xã hội người thường và nó không được phép làm như vậy, hiệu quả của nó có lẽ cũng sẽ không tốt. Như quý vị biết, có người đã mở các trung tâm chẩn bệnh bằng khí công, các nhà thương khí công và các trung tâm phục hồi bằng khí công. Trước khi mở các thương vụ này, kết quả của cách điều trị có thể chấp nhận được. Một khi họ mở các thương vụ để trị bệnh thì hiệu quả giảm sút rõ rệt. Ðây là điều cấm kỵ việc sử dụng các công năng để hoàn tất các chức năng trong xã hội người thường. Làm như vậy nhất định sẽ giáng cấp nó xuống ngang với các nguyên lý của xã hội người thường.
Sử dụng công năng để nhìn xuyên qua cơ thể con người cũng tương tự như quan sát các bộ phận, từng lớp này đến lớp kế tiếp. Các mô mềm cũng như bất kỳ bộ phận nào trong cơ thể đều có thể quan sát được. Mặc dù các máy tạo hình (quét ảnh CT) có khả năng cho thấy rất rõ ràng, nhưng nói cho cùng, nó chỉ là một bộ máy, đòi hỏi rất nhiều thời gian, dùng một số lượng phim rất nhiều, rất chậm chạp và tốn kém. Nó không được chính xác và tiện dụng như công năng của con người. Chỉ cần nhắm mắt lại là họ xem lướt qua một cách nhanh chóng, các vị thầy khí công có khả năng nhìn thẳng bất cứ chỗ nào trên mình bệnh nhân một cách rõ ràng. Ðây có phải là kỹ thuật cao cấp không? Kỹ thuật cao cấp này ngay cả còn tiến xa hơn các kỹ thuật cao cấp tân thời. Tuy vậy, loại khả năng này đã có ở Trung hoa từ xưa. Nó là kỹ thuật cao cấp thuở đó. Hoa Ðà khám phá ra khối u đang phát triển trong đầu của Tào Tháo và muốn giải phẫu lấy nó ra. Tào Tháo không đồng ý và nghi rằng làm như vậy để ám hại ông ta. Ông đã ra lệnh bắt nhốt Hoa Ðà. Sau đó, Tào Tháo chết vì hậu quả của khối u. Có rất nhiều đại trung y trong quá khứ thật sự có mang các công năng. Chỉ vì người trong xã hội tân tiến này quá muốn theo đuổi các điều thực tiễn và đã bỏ quên các truyền thống cổ xưa.
Sự tu luyện khí công cao cấp của chúng ta nhằm thẩm định lại những điều được lưu truyền, thừa hưởng và phát huy thêm nhờ vào sự luyện tập, và sử dụng chúng trở lại để cống hiến cho xã hội loài người.

6. Khí công Phật gia và Phật giáo

Ngay lúc chúng tôi vừa đề cập tới khí công của Phật Gia20, nhiều người có lẽ nghĩ đến vần đề này: Vì mục đích của Phật Gia là tu thành Phật, họ bắt đầu móc nối với Phật giáo. Tôi long trọng minh xác rằng Pháp Luân Công là khí công của Phật Gia, là một đại pháp chính truyền, và không có liên hệ gì với Phật giáo. Khí công của Phật Gia là khí công của Phật Gia, trong khi đó Phật giáo là Phật giáo. Tuy có cùng chung mục đích là tu luyện, nhưng chúng theo các đường hướng khác nhau, vì không cùng một pháp môn nên các đòi hỏi cũng không giống nhau. Tôi đã đề cập đến chữ "Phật", tôi sẽ đề cập tới lần nữa khi nói về công ở cấp cao, chữ này tự nó không mang sắc thái mê tín gì hết. Có người trở nên điên loạn lên khi nghe đến chữ "Phật", họ sẽ cho rằng chúng ta đang truyền bá những điều mê tín, nó không phải vậy. "Phật" là chữ Phạn, truyền từ Ấn Ðộ, dịch theo cách phát âm nó được gọi là "Phật Ðà", người ta bỏ xót chữ "Ðà" đi và chỉ giữ lại chữ "Phật", dịch sang chữ Hán nó có nghĩa là "giác giả", đó là người đã giác ngộ (Xem “Từ Hải21”).

(1) Khí công Phật gia

Hiện nay có hai loại khí công Phật gia đã được truyền bá trong công chúng. Một loại tách ra từ Phật giáo, nó xuất sinh nhiều vị cao tăng trải qua nhiều ngàn năm phát triển, trong quá trình tu luyện, khi họ tu luyện đến một trình độ rất cao, có một vị thượng sư sẽ chỉ những điều trong pháp môn của họ, nên họ nhận được sự chân truyền ở các cấp cao hơn nữa. Trong quá khứ, tất cả những điều này thường được truyền xuống mỗi lần chỉ cho một người mà thôi22. Chỉ khi nào vị cao tăng gần viên tịch thì mới truyền lại cho một người đệ tử và người này sẽ tu luyện dựa theo các nguyên lý của Phật giáo và cải tiến toàn bộ hệ thống thêm nữa. Loại khí công này dường như liên quan mật thiết với Phật giáo. Sau khi các thầy tăng bị đuổi khỏi chùa, chẳng hạn như dưới thời "Ðại Cách Mạng Văn Hóa", các bài công pháp được lưu truyến trong dân gian và được phát triển rộng rãi trong dân gian.
Một loại khí công Phật gia khác nữa, qua các thời đại loại khí công Phật gia này chưa bao giờ là một phần tử của Phật giáo, nó luôn luôn được âm thầm tu tập trong dân gian hay trong vùng núi non sâu thẳm. Các loại công pháp này đều rất là độc đáo, chúng đòi hỏi phải chọn một người đệ tử tốt, một người với nhiều đức tính thật vĩ đại và có thể thật sự tu luyện lên cao tầng. Loại người với tài năng này chỉ xuất hiện trên thế giới này một lần trong nhiều, nhiều năm. Các công pháp này không thể nào được công khai phổ truyền, đòi hỏi một tâm tính thật cao, công cũng tăng trưởng thật mau, những loại công pháp này cũng không phải là ít. Ðạo gia cũng giống như vậy. Mặc dầu tất cả đều là công của Ðạo gia, chúng nó được phân chia ra làm các phái như là Côn Luân, Nga Mi, Võ Ðang. Mỗi phái có nhiều pháp môn khác nhau, công pháp của mỗi môn rất là khác biệt lẫn nhau, chúng nó không thể nào được pha trộn và tập luyện chung nhau.

(2) Phật giáo

Phật giáo là một bộ gồm các hệ thống tu luyện được xây dựng trên những điều giác ngộ bởi Thích Ca Mâu Ni, dựa trên căn bản tu luyện nguyên thủy của ngài từ hơn hai ngàn năm trước ở bên Ấn Ðộ. Một cách tóm lược, nó nói về ba chữ là: "giới, định, huệ". Giới nhằm mục đích đi đến định. Mặc dầu phật giáo không giảng về luyện công, thật ra họ có luyện công, khi họ ngồi xuống và bước vào trạng thái định tức là họ đang luyện công. Vì khi người ta trở nên bình tĩnh và gom tâm lại, năng lượng từ vũ trụ bắt đầu tích tụ trên cơ thể của họ như vậy đạt được tác dụng của luyện công. Giới trong phật giáo có nghĩa là từ bỏ mọi ham muốn của người thường, từ bỏ mọi thứ mà người thường bám víu23 vào, như vậy họ đạt đến trạng thái thanh tĩnh vô vi, làm cho họ có thể đạt tới định, trong định người ta không ngừng nâng cao trình độ của mình, xong trở thành giác ngộ và đạt đến huệ, hiểu biết về vũ trụ, và nhìn thấy chân tướng của vũ trụ.
Trong lúc truyền pháp, Thích Ca Mâu Ni chỉ làm ba điều sau đây hàng ngày: dạy pháp (chính yếu là Pháp A-La-Hán) cho các đệ tử; xong mang bình bát đi khất thực; sau đó là ngồi thiền để thật sự tu luyện. Sau khi Thích Ca Mâu Ni không còn tại thế, Bà La Môn giáo và Phật giáo chống đối nhau dữ dội, sau đó, hai tôn giáo này sát nhập vào nhau thành Ấn Ðộ giáo, điều này cắt nghĩa tại sao ngày nay Phật giáo không còn tồn tại ở Ấn Ðộ. Các sự phát triển và tiến hóa sau đó đưa đến sự xuất hiện của Phật giáo Ðại Thừa mà đã lan rộng đến trong nước Trung hoa và trở thành Phật giáo ngày nay. Phật giáo Ðại Thừa không còn thờ phụng Thích Ca Mâu Ni như là người khai đạo duy nhất nữa, đó là niềm tin vào nhiều vị Phật, nhiều vị Như Lai, chẳng hạn như Phật A Di Ðà, Phật Dược Sư. Có thêm nhiều giới luật hơn, và mục tiêu của sự tu luyện cũng nâng lên cao hơn nữa. Lúc trước Thích Ca Mâu Ni truyền dạy Bồ Tát Pháp cho một ít đệ tử, sau đó các lời dạy này được cải tổ lại và phát triển thêm thành Phật giáo Ðại Thừa ngày nay để tu thành Bồ Tát24. Hiện tại ở Ðông Nam Á, truyền thống của Phật giáo Tiểu Thừa vẫn còn được bảo tồn, các nghi thức được thực hiện bằng cách sử dụng các phép thần thông. Trong quá trình tiến hóa của Phật giáo, một chi phái được truyền bá sang Tây Tạng vào đất nước của chúng ta (Trung quốc) và được gọi là Mật Tông Tây Tạng; một chi phái nữa được truyền vào đất Hán qua Tân Cương và được gọi là Mật Tông đời Ðường (đã bị biến mất sau khi Phật giáo bị khai trừ trong những năm dưới thời Hội Xương), còn có thêm một chi phái phụ nữa tạo thành Yoga ở Ấn Ðộ.
Phật giáo không giảng về luyện công, cũng không luyện tập khí công, đây là để duy trì phương pháp tu luyện truyền thống của Phật giáo, đây cũng là một nguyên nhân quan trọng tại sao Phật giáo đã kéo dài hơn hai ngàn năm và không bị suy yếu. Chính vì nó không tiếp thu bất cứ thứ gì từ bên ngoài, để dễ dàng gìn giữ truyền thống của nó. Các pháp tu trong Phật giáo không hoàn toàn giống nhau. Phật giáo Tiểu Thừa chú trọng về tự độ và tự tu; Phật giáo Ðại Thừa đã được phát triển để tự độ và độ tha, phổ độ chúng sinh.

7. Chính pháp và tà pháp

(1) Bàng môn tả đạo

Bàng môn tả đạo cũng được gọi là Kỳ môn tu pháp. Trước khi các tôn giáo được thành hình, đã xuất hiện nhiều môn khí công khác nhau. Có nhiều đường lối tu luyện bên ngoài phạm vi của tôn giáo và được lưu truyền trong dân gian, phần lớn các đường lối này không có phát triển thành một hệ thống tu luyện trọn vẹn, cũng không có một lý thuyết trọn vẹn, nhưng Kỳ môn tu pháp là phương pháp tu luyện vững mạnh, đặc biệt, trọn vẹn, và có hệ thống, và cũng đang được truyền bá trong dân gian. Các cách tập này thường được gọi là Bàng môn tả đạo. Tại sao chúng được gọi như vậy? Theo văn tự, "bàng môn" là "cửa bên cạnh"; "tả đạo" có nghĩa là đường lối vụng về. Người ta xem cả hai Phật và Ðạo gia là chính pháp, và tất các các đường lối khác là bàng môn tả đạo, hay là tà pháp. Thật ra nó không phải như vậy. Trong lịch sử bàng môn tả đạo đã được tu luyện rất bí mật và truyền lại cho chỉ một người25, nó không được phép tiết lộ cho công chúng. Một khi nó truyền ra ngoài, người ta không hiểu nó rõ cho lắm. Họ tự cho rằng mình không thuộc về Phật cũng không thuộc về Ðạo26. Các phương pháp tu luyện của nó đòi hỏi về tâm tính rất nghiêm ngặt, nó tu luyện dựa theo các đặc tính của vũ trụ, chủ trương làm việc thiện, giữ gìn tâm tính. Các bậc cao nhân trong Kỳ môn tất cả đều có các chiêu thức tuyệt vời 27, và một số kỹ thuật đặc biệt của họ cũng rất là mạnh mẽ. Tôi đã gặp ba vị cao nhân của Kỳ môn, họ dạy cho tôi vài điều mà không thể tìm thấy trong Phật gia hay Ðạo gia. Những điều này mỗi thứ đều khá khó khăn trong quá trình tu luyện, nên công đạt được cũng rất là độc đáo. Trái lại, một số đường lối tu luyện trong Phật gia và Ðạo gia lại thiếu sự đòi hỏi nghiêm khắc về tâm tính, và vì lẽ đó nên không tu lên cấp cao được, vậy nên, chúng ta phải phán xét mỗi pháp môn tu luyện một cách khách quan.

(2) Khí công võ thuật

Khí công võ thuật được thành hình ngày nay qua một lịch sử lâu dài, với một hệ thống lý luận và các phương pháp tu luyện trọn vẹn, nó tạo thành một hệ thống độc lập. Nhưng nói đúng ra, nó chỉ phản ảnh các công năng mà có thể phô diễn bằng pháp nội tu 28ở cấp thấp nhất. Các công năng xuất hiện qua sự tu luyện võ thuật tất cả cũng sẽ xuất hiện trong pháp nội tu. Tu luyện khí công võ thuật cũng bắt đầu bằng các bài luyện khí, chẳng hạn như lúc bắt đầu khi đánh vào một phiến đá, họ cần phải quay hai cánh tay để dẫn khí, thời gian lâu dần khí sẽ thay đổi bản chất và trở thành một khối năng lượng mà sẽ xuất hiện dưới dạng ánh sáng, khi đạt đến trình độ này, Công sẽ bắt đầu có tác dụng. Vì công là vật chất ở cấp cao, nên nó cũng có linh tính, nó được điều khiển bởi ý nghĩ trong bộ óc, và hiện hữu trong một không gian khác. Khi bị tập kích không cần phải vận khí nữa, khi vừa tưởng đến là công sẽ tới ngay. Trong suốt hành trình tu luyện, công sẽ không ngừng gia tăng sức mạnh, các hạt của nó càng tinh tế hơn, và năng lượng tăng trưởng mạnh hơn, các năng khiếu như là "Bàn Tay Sắt", "Bàn Tay Chì" sẽ xuất hiện. Trong các phim chiếu bóng, truyền hình và các tạp chí của những năm gần đây, thấy xuất hiện các năng khiếu như là "Khiêng Chuông Vàng" và "Áo Vải Sắt", đó là do luyện tập cùng lúc nội tu và võ thuật tạo thành, nó xuất hiện do nội ngoại song tu. Muốn luyện nội tu người ta cần phải trọng đức, phải tu tâm tính. Về phương diện lý thuyết, khi năng khiếu của họ đạt tới trình độ nào đó, nó làm cho công ở bên trong cơ thể phát xuất ra, phóng ra bên ngoài cơ thể, vì nó có mật độ rất cao, nó trở thành tấm chắn bảo vệ. Trên lý thuyết, sự khác biệt lớn nhất giữa võ thuật và nội tu của chúng ta dựa trên sự kiện là võ thuật được tập luyện với các động tác thật mãnh liệt và không bước vào trạng thái tịnh. Không ở trạng thái tịnh làm cho khí luân chuyển dưới làn da, đi xuyên qua các bắp thịt, nhưng không tụ tại đan điền, nên không tu mệnh được, không thể nào tu mệnh được.

(3) Tu ngược và mượn công

Một số người chưa bao giờ luyện tập khí công, thình lình họ đạt được công qua đêm, với năng lượng cũng khá mãnh liệt, họ còn có khả năng chữa bệnh cho các người khác nữa, người ta cũng gọi họ là thầy khí công, và họ cũng chỉ dạy cho người khác nữa. Một số trong những người đó, mặc dầu trên thực tế họ chưa bao giờ học công pháp hay chỉ học vài động tác, và họ đang chỉ dạy cho người khác những điều mà họ sửa khác đi chút ít. Loại người này không thể được xem như là thầy khí công được, họ không có điều gì để truyền dạy cho kẻ khác. Những điều họ chỉ dạy chắc chắn không thể dung để tu luyện lên tầng cao được, cùng lắm là nó giúp để chữa bệnh và cải thiện sức khỏe29. Loại công này xảy ra như thế nào? Trước hết hãy nói về tu ngược. Cái được gọi là tu ngược liên hệ đến những người thật tốt, tâm tính thật cao, họ khá lớn tuổi, thường là trên 50, họ không còn đủ thời gian để tu luyện từ đầu, vì không dễ gì gặp được một vị minh sư chỉ dạy cách để tu luyện cả tâm lẫn thân. Vừa lúc họ phát ra ý muốn luyện công, các vị thầy cao cấp30 liền phóng cho họ một khối năng lượng rất lớn dựa vào nền tảng tâm tính của họ, để cho họ có thể tu ngược từ trên cao xuống thấp, lối tu luyện này nhanh hơn rất nhiều. Các vị thầy cao cấp làm sự chuyển hóa từ bên trên, liên tục trút thêm năng lượng từ phía ngoài cho người đó, nhất là khi họ đang chữa bệnh, và tạo thành một trường năng lượng, năng lượng do vị thầy cung cấp luân chuyển như qua một đường ống dẫn, có người ngay cả không biết năng lượng từ đâu tới. Ðây là sự tu ngược.
Một hình thức khác được gọi là mượn công. Mượn công không bị giới hạn bởi tuổi tác. Ngoài chủ ý thức ra, con người còn có ít nhất là một phó ý thức, nó thường đến từ cấp bậc cao hơn chủ ý thức. Phó ý thức của một số người đã đạt đến một trình độ rất cao, nó có thể liên lạc với các đấng giác ngộ, khi những người này muốn luyện công, phó ý thức của họ cũng muốn nâng cao trình độ của nó, lập tức nó liên lạc với đấng đại giác để mượn công. Sau khi mượn công xong, người đó sẽ có công qua đêm, sau khi đạt được công, họ cũng có thể chữa bệnh, làm giảm cơn đau cho người bệnh. Thông thường là họ sử dụng phương pháp tích tụ khối năng lượng, thêm vào đó họ có thể phân phát năng lượng cho từng người, cũng như truyền dạy vài thủ pháp.
Nói chung có những người như vậy, lúc ban đầu khá tốt, có mang công, trở thành nổi tiếng, và gặt hái cả danh lẫn lợi. Danh và lợi chiếm phần lớn trong đầu của họ, còn hơn cả việc tu luyện, từ đó trở đi công bắt đầu tụt xuống, trở nên càng lúc càng nhỏ, nhỏ dần cho đến khi sau cùng tất cả đều biến mất.

(4) Ngôn ngữ vũ trụ

Một số người bỗng nhiên nói ra một loại ngôn ngữ nào đó, khi nói ra, nó có âm thanh tương đối trôi chảy, tuy nhiên nó không phải là thứ ngôn ngữ của nhân loại trong xã hội. Nó được gọi là gì? Nó được gọi là ngôn ngữ vũ trụ. Cái được gọi là ngôn ngữ vũ trụ, bất quá chỉ là một thứ ngôn ngữ của các sinh mệnh chưa được tiến hóa cao cho lắm. Hiện nay trong nước, hiện tượng này đã xảy ra cho một số ít người tập luyện khí công, thậm chí vài người trong nhóm này có thể nói vài ngôn ngữ khác nhau. Dĩ nhiên, các ngôn ngữ của loài người chúng ta cũng rất là phức tạp, với hơn một ngàn loại khác nhau. Ngôn ngữ vũ trụ có được xem như là một công năng31 hay không? Tôi nói rằng nó không được kể như vậy, nó không phải là công năng của chính bản thân quý vị, cũng không phải là một loại quyền năng ban phát cho quý vị từ bên ngoài. Ðúng hơn là nó được điều khiển bởi các linh thể ngoại lai. Nguồn gốc của các linh thể này đến từ một cấp có phần hơi cao, ít nhất cũng cao hơn loài người. Một trong chúng nó đang nói, người phát âm ra vũ trụ ngữ chỉ được sử dụng như một loa phóng thanh. Ða số ngay cả không biết chính họ nói ra những gì. Chỉ những người có khả năng đọc được ý nghĩ32, mới có thể nhận biết đại khái ý nghĩa của những lời nói đó. Nó không phải là một công năng, nhưng nhiều người nói thứ ngôn ngữ đó cảm thấy mình hay hơn người khác và tự mãn vì họ nghĩ rằng đó là một công năng. Thật ra người mở thiên mục ở cấp cao có thể quan sát điều đó, chắc chắn là một linh thể đang phát âm xiên xéo ở bên trên, truyền qua cửa miệng người đó.
Nó dạy ngôn ngữ vũ trụ cho người đó, đồng thời cũng cấp cho họ một phần công của nó, tuy nhiên, sau đó người này sẽ bị nó khống chế, cho nên đây không phải là một chính pháp. Ngay cả nó ở một không gian cao hơn, nó không có tu luyện theo chính pháp, vì vậy nó không biết làm sao để chỉ dạy người tu luyện cách giữ gìn sức khỏe và trị bệnh. Vậy nên nó sử dụng cách thức này, để phóng ra năng lượng qua lời nói. Vì năng lượng này thất thoát đi, nên sức mạnh rất nhỏ, nó có hiệu nghiệm để chữa trị các bệnh nhẹ, nhưng bệnh nặng thì không làm được. Phật giáo nói rằng người trên thiên đàng có không đau khổ, xung đột, nên không thể tu luyện được, không thể tự mình rèn luyện, nên không thể nâng cao trình độ của họ được, vậy nên họ tìm cách giúp người ta cải thiện sức khỏe, để cho họ có thể tiến lên cao được. Ðây là tất cả những gì thuộc về vũ trụ ngữ. Vũ trụ ngữ không phải là công năng, cũng không phải là khí công.

(5) Nhập thân33

Loại nhập thân tai hại nhất là bị chiếm bởi một linh thể ở cấp thấp, và cũng gây ra do sự tu luyện theo tà pháp. Nó rất nguy hiểm cho người ta, và hậu quả cho những người bị nhập cũng thật đáng kinh hoàng. Một số người mặc dầu chỉ tu luyện trong một thời gian ngắn, nhưng ham muốn trị bệnh cho người khác, muốn phát tài, họ luôn luôn suy nghĩ về những điều đó. Ban đầu những người này có lẽ khá đứng đắn, hay có lẽ có một vị thầy lo cho họ. Tuy vậy tất cả đều trở nên tệ hại khi họ bắt đầu tính đến việc trị bệnh, và làm giàu, họ đã thu hút các linh thể này, ngay cả chúng nó không ở trong không gian vật chất của chúng ta, nhưng chúng nó là những thứ có thật.
Người tu luyện loại này đột nhiên cảm thấy thiên mục của họ được mở, họ có công, nhưng thật ra nhập thể đó kiểm soát đại não của người đó. Nó phản chiếu hình ảnh mà nó trông thấy lên đại não của người đó, làm cho người đó cảm thấy như thiên mục của mình được mở, thật ra nó không có mở chút nào cả. Tại sao nhập thể đó muốn cho người đó công của nó? Tại sao nó muốn giúp cho người đó? Ðó là vì trong vũ trụ của chúng ta, thú vật không được phép tu, vì thú vật không biết đến tâm tính, không thể tự mình thăng tiến, không được phép đắc chính pháp. Kết quả là nó muốn bám víu vào cơ thể con người, để thu hút tinh hoa của con người. Lại còn có một nguyên lý khác nữa trong vũ trụ, đó là: "không mất, không được". Vì vậy, chúng nó muốn thỏa mãn yêu cầu về danh lợi của quý vị, trở nên phát tài, nổi danh. Nhưng chúng nó không có giúp không công cho quý vị, chúng nó cũng muốn lấy được chút gì đó, chính là tinh hoa của quý vị. Khi nó rời bỏ quý vị, quý vị sẽ không còn lại gì hết, trở nên thật yếu đuối, hay là trở thành mềm nhũn như thực vật! Ðiều này do tâm tính bất chính mà ra. Nhất chính thắng bách tà, khi tâm quý vị thật ngay thẳng, quý vị sẽ không thu hút tà ma, nói khác đi, hãy làm người tu luyện đàng hoàng34, buông bỏ mọi điều lộn xộn35, và chỉ tu luyện chính pháp.

(6) Tà pháp có thể sinh ra trong chính pháp

Mặc dầu công của một số người được tu luyện từ chính pháp, do vì họ không thể tự đặt các tiêu chuẩn nghiêm ngặt cho mình, không biết đến tâm tính, nghĩ đến những điều không tốt trong lúc luyện công, họ có thể thật sự luyện tà pháp mà không biết. Ví như trong lúc tập các động tác đứng, hay ngồi, ngay cả cơ thể đang tập luyện, ý nghĩ của họ thật sự hướng về tiền bạc, về danh lợi, nghĩ là nó làm trái ý tôi và tôi sẽ trị nó sau khi tôi có công năng; hay là nghĩ về các công năng này, công năng nọ, vài điều xấu đã được thêm vào trong công bằng cách này, trên thực tế là người đó đang tập tà pháp. Ðiều này rất nguy hiểm, vì nó có thể thu hút rất nhiều điều thật xấu, chẳng hạn như các linh thể ở cấp thấp, có lẽ người này cũng không biết rằng như vậy là mời mọc chúng nó vào. Vì sự ràng buộc của anh ta quá mạnh, nó không mang lại kết quả nếu người ta tập luyện với mục đích thỏa mãn ham muốn của mình, tâm anh ta không ngay thẳng, và ngay cả vị thầy của anh ta cũng sẽ không có biện pháp nào để bảo vệ cho anh ta. Vì vậy, người luyện công nhất định phải giữ tâm tính nghiêm ngặt, duy trì tâm ngay thẳng và không mong cầu, nếu không nhiều vấn đề có thể xảy ra.