Search This Blog

Tuesday, June 5, 2012

Định hình dáng qua một số cách


Cách xác định giờ căn cứ vào tính chất sao CĂN CỨ VÀO TÍNH CHẤT SAO:
Căn cứ vào tính chất các sao thủ, chiếu mệnh để xem tướng cách và đặc điểm ngõ hầu dễ xác định giờ sinh hơn. Có thể phân loại như sau:
I. Tử, Phủ, Vũ, Tướng:
 Là loại người đa số nắm quyền sinh sát nếu đủ Khoa Quyền Lộc, Xương Khúc, Tả Hữu, Tứ Linh..., thường thì phúc hậu, đường bệ, uy nghi nếu sao đắc địa thủ hợp Mệnh, Thân. a. Tử Vi: Đa số phúc hậu, tính tình cẩn trọng, tướng người vừa tầm, cân đối, da thường hơi ngâm hoặc vàng không trắng, không cao, không thuộc loại đẹp trai, nếu ở Dần Thân. Ngoại trừ người có Mệnh ở Tí, Ngọ không gặp Tuần Triệt
thì tướng cao, nhưng cũng không đẹp vì thường mặt mụn hoặc sần sùi. Người gặp Tuần Triệt tại Mệnh ở Tí Ngọ thì da trắng, thanh tú, không mụn hay sần sùi, nhưng không cao. Trường hợp người gặp Tử Vi có Không Kiếp thì lại đẹp trai, nhưng Tử Vi gặp Không Kiếp là đế ngộ hung đồ, thường làm đàn anh đi trộm cướp. - Tử Sát ở Tỵ Hợi nhờ có Thất Sát nên da trắng, trai gái đều đẹp, và mặt thường không bị mụn hay sần sùi, vì Tử Vi ở Tỵ được Thất Sát Kim tiết khí Thổ và Thiên Đồng ở Tí đắc địa nên Thổ không đến nổi khô táo tạo thành mụn nhọt. Ở Hợi thì Tử Vi vừa được Thất Sát Kim và cung Hợi Thuỷ tưới nhuận, nên Thiên Đồng ở Ngọ hãm mà không bị mụn nhọt. - Tử Phá ở Sửu Mùi nhờ có Phá Quân Thuỷ nên trai gái đều đẹp, da hơi trắng, và mặt không mụn, nhưng tính hơi nóng nảy và dữ. - Tử Tham Mão Dậu thì hơi dư bề ngang và hơi thiếu bề cao. Nói chung không cao và hơi mập, nhưng da không trắng, và mặt mày không mụn hoặc sần sùi, do nhờ Tham Lang mộc khắc bớt chất Thổ của Tử Vi. - Tử Tướng Thìn Tuất cũng thấy không mụn, vì nhờ Thuỷ của Thiên Tướng. Nhưng ở đây phái nam thường đẹp trai hơn phái nữ.
Chú Ý: Đừng ngạc nhiên khi người có Tử Vi đắc địa hợp Mệnh mà “da mặt lại sần sùi hay mụn” đó là vì Thổ quá vượng và cung Tật Ách của họ có Thiên Đồng không đắc địa hoặc hãm. Nếu Tử-Vi thủ Mệnh thì Thiên Đồng bao giờ cũng ở cung Tật Ách, còn Tử-Phủ thủ Mệnh thì Tật Ách là Đồng-Cự. Cả hai trường hợp thường làm cho đương số hô, mặt mụn hay sần sùi nếu không có Tuần Triệt. Duy, người bị Tuần-Triệt tại Mệnh thì mặt lại không mụn! Nói chung những người Mệnh Kim, Hỏa, và Thổ, mà gặp phải Tử Vi ở các cung như Tí, Ngọ, Dần Thân thì rất dễ bị mụn, nếu cung Tật hay Mệnh không có Tuần Triệt. b. Thiên Phủ: thường thì tướng người đậm, hơi có thịt, đầy đặn, trắng trẻo, thường cao lớn, hay dong dảy, mặt mày có nét hiền lành phúc hậu. Tính khí ôn lương, nhẹ nhàng hơn Tử Vi, nhưng mạnh dạn hơn CNDL. Gặp Tử Vi ở Dần Thân khó tránh bị mụn, nếu không có những cách như đã nói ở sao Tử Vi. Gặp các sao khác như Liêm Phủ, Thìn Tuất, Vũ Phủ, Tí Ngọ, vẫn đẹp đẻ, phương phi. c. Vũ Khúc: thường tướng nhỏ con, không cao, nhưng nét cứng chắc, mặt hơi xương, nhiều nốt ruồi, tính quả quyết, hơi khó tính, hơi kiêu kỳ, mà cô độc. d. Thiên Tướng: thường tướng cao lớn, tính nóng, có tâm Đạo, có khiếu làm thầy tu, bói toán, nhà văn, bác sĩ... nếu có Quang Quý, hay Quan Phúc. Riêng
đóng ở Mão Dậu thì tướng người dong dãy vừa tầm, không mập không ốm, da hơi ngâm một chút. Còn ở Sửu Mùi thì tướng khá cao lớn.
II. Sát, Phá, Liêm, Tham:
Tướng người cứng chắc, ngang tàng khí phách, gan gốc. Nếu thêm Địa Không, Địa Kiếp nữa thì họ chẳng nễ vì ai cả. a. Thất Sát: tướng oai, tính cương, đôi khi nông nổi vì bốc đồng.Con gái có Thất Sát thường lưỡng quyền cao (gò má cao), mặt thường hơi xương. Thất Sát Tí Ngọ: đắc địa da trắng, có tướng thư sinh, cạnh hàm hơi bén (mặt hơi xương lưỡng quyền hơi lộ), tướng oai, tính cương, đôi khi nông nổi vì bốc đồng. Mới nhìn hơi giống Thiên Lương, Nhật, Nguyệt, nhưng cứng chắc hơn. Thất Sát Dần Thân: Tướng khá cao lớn, da hơi ngâm, không trắng, tướng bệ vệ, tính khá nóng gấp, đàn bà cũng khá dữ. Vũ Sát Mão Dậu: Người không cao, xương hơi to, da hơi ngâm hoặc vàng không trắng, thường hay bị bệnh thần kinh hoặc tinh thần hơi yếu. Tính nóng gấp, gan gốc, lỳ lợm, cho dù là phái nữ cũng hơi dữ. Liêm Sát Sửu Mùi: Tướng người dong dảy khá cao, da thường trắng, mặt hơi dài, tính thẳng thắn mạnh dạn. b. Phá Quân: đắc địa da trắng nhuận, nếu hãm trắng bạch, tướng người vừa tầm, má hơi hóp mặt hơi xương, cạnh hàm hơi bén, có nét đàn anh, nghiêm nghị. - Liêm Phá Mão Dậu tương đối cao, mặt mày đầy đặn. Ở đây thì đương số thường nói năng hơi phóng đại một tí, và hay dùng những danh từ binh lửa, hay đao to búa lớn... hoặc giống y như đang ra trận. Ví dụ: "Hắn định tung một chưởng Tử Vi với tôi, liền bị tôi oanh tạc cho tắt bếp". Nghe người Liêm Phá nói chuyện thì thật là thú vị. c. Liêm Trinh: tướng người hơi ốm nhưng cứng chắc, mặt hơi dài, trán có nhiều nếp nhăn, mắt hơi lội, lông mày rậm, tính khí thích tranh đấu, nóng nảy, can đảm, dũng mãnh, trung trực, liêm khiết, thẳng thắn. Nữ phái gặp Liêm Trinh thì thanh khiết, đoan chính, mà vẫn nóng. d. Tham Lang: Mặt hơi tròn, tướng người hơi mập thịt nhưng cứng chắc và mạnh dạn, lông tóc nhiều, hoặc râu quai nón (gặp Hóa Lộc hay Riêu Y càng chắc), lòng tham dục và tình dục rất mạnh. Tham Lang luôn nhị hợp với Thiên Đồn, nên ăn vào Thiên Đồng thì hơi mập, nhưng tướng mềm, không nóng nảy và mạnh dạn như ăn vào Tham Lang. Người Tham Lang thường dễ ra mồ hôi và hơi nặng mùi.
 III. Cự, Nhật:
Thuộc loại công chức như Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương, nhưng ăn nói rất đanh thép. a. Thái Dương: Nếu sáng sủa thì tướng người dong dãy, có cặp mắt to hoặc đen láy mơ huyền rất đẹp hoặc làm nổi bậc nhất trong khuôn mặt, mặt mày sáng sủa, khôi ngô tuấn tú, thông minh đỉnh ngộ, tính tình hiền lành, nhưng hoạt bát hành động nhanh nhẹn, hơi tự hào; hãm địa thì mặt mày vẫn vậy nhưng da hơi ngâm, tính tình trầm tỉnh hành động chậm rãi, giọng nói hơi nhỏ nhẹ, không mạnh dạn, kém thông minh. Ở Thân Dậu, Tuất Hợi, Tí Sửu, gặp Tuần Triệt là hay nhất. Nếu hãm địa ở những nơi khác gặp Tuần, Triệt là người có trí nhớ rất dai, nhưng lại khi thông minh khi tối tăm. Thái Dương hợp với nam, nên dù hãm địa ở Tuất Hợi Tý vẫn là một người rất đẹp trai; nhưng ngược lại đối với phái nữ thì không thuộc loại đẹp gái. b. Cự Môn: thường da trắng, có mũi lân, mặt hay mũi thường có mụn hay sần sùi, miệng thường hô, trừ khi gặp Tuần Triệt, hay thân đóng ở nơi khác. Tướng người thường mềm mại, nhưng ăn nói đanh thép nếu đắc địa, hãm địa thì thích thị phi, hay lý tài, biện luận. Cự Môn hãm gặp Tuần Triệt thì mặt mày trắng trẻo, và mũi hay mặt không mụn hay sần sùi.
IV. Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương:
Dáng người mềm mại (dù là mập) và tướng thường thanh thanh (tức là thuộc loại bạch diện thư sinh). a. Thiên Cơ: Nét mặt hiền lành, đạo đức, trai thì thư sinh, gái thì nhu mì nết na, là người nhân hậu, chí thiện. Tướng người mềm mại, da dẻ khá trắng, gò má hơi lộ hoặc má hơi hóp. - Cơ-Lương: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thường mặt chữ điên (vuông) da trắng, mũi cao, mặt đẹp, tướng cao, nói chung là trang mỹ tử. Tính tình thanh cao, hiền lương, ngay thẳng, đạo đức. b. Thiên Lương: mặt thanh tú, da trắng, và có cái cằm vuông c. Thái Âm: Nếu sáng sủa thì da trắng, mặt mày đẹp đẽ, thanh tú, thông minh sáng suốt, cặp mắt to đẹp, hoặc đen láy hay mơ huyền hoặc làm nổi bậc nhất trong khuôn mặt, phái nữ gặp thì rất hợp. Phái nam gặp thì đẹp trai nhưng tính giống như “mụ”, nhất là miệng khi nói chyện hay điệu hoặc sửa nét, mặc dù đây là tính tự nhiên; nói chung có vài tính giống nữ. Nếu hãm địa tính tình trầm tỉnh hành động chậm rãi, kém thông minh, da hơi ngâm; nếu đắc địa cực kỳ thông minh, tính tình khoáng đạt hành động nhanh nhẹn, hơi tự hào. Thái Âm hãm địa hay đắc địa gặp Tuần Triệt cách luận cũng giống như Thái Dương. Nữ phái gặp Thái Âm hãm gặp Tuần Triệt, hoặc đắc địa thì đó là một người đàn bà tuyệt vời, vì nết na thuỳ mị, đoan trang, công dung ngôn hạnh đủ đầy. Thái Âm từ Mão đến Tỵ, nếu không có Tuần Triệt thì giọng nói yếu ớt vì thiếu khí lực, da hơi xanh, sức khỏe yếu kém, người thường mảnh khảnh ốm yếu. d. Thiên Đồng: tướng thường thấp và hơi mập (nếu mập thì nhiều phúc, thường giàu có, khá giả), đặc biệt đùi và mông to (xương chậu rất to, thường trên thon nhỏ dưới bự từ mông và đùi, gặp trường hợp này đi giống y như con vịt), nếu hãm địa da đen. Mặt mày và tính tình phúc hậu, nhưng tính hay thay đổi bất thường (vì tính như con nít, chữ Đồng) như trẻ con, ưa động. Mặt và tính trẻ hơn so với tuổi. Nếu ở Mão Dậu gặp Tuần Triệt người lại mình dây, tướng dong dãy, nhưng xương chậu mông và đùi vẫn to hơn những nơi khác. Tóm lại gặp người có Thiên Đồng chỉ cần chú ý mông và đùi là biết ngay. - Cự-Đồng: ở Sửu Mùi, tướng người hơi thấp và hay phì nộn, mông to, da đen, mặt hay mũi thường mụn, miệng hô. Nếu gặp Tuần Triệt thì da trắng, người vừa tầm, nếu là gái thì lại đẹp, hô giả, quý tướng. Theo kinh nghiệm cho thấy: không phải lúc nào tướng người cũng giống như sao thủ Mệnh, nhưng nếu giống thì mới được hưởng những cách tốt, hoặc mới bị những cách xấu của sao ấy, (tuy nhiên tính chất của Sao thủ Mệnh thì vẫn không thay đổi mấy). Trường hợp tướng người không giống Sao thủ Mệnh, thì phải xem giống Sao nào trong tam hợp, nhị hợp, hay xung chiếu, rồi mới tính cách tốt xấu của Sao đó. Hơn nữa, trong thực tế thì tướng người cao thấp, da dẻ đen trắng, còn tuỳ thuộc vào gene duy truyền của cha mẹ, và sự phát triển ăn uống lúc nhỏ. Đây chỉ là những nét đại cương, không thể nào hoàn toàn chính xác bất di bất dịch được! Điểm tôi mong mỏi các bạn tập là, làm thế nào trước khi các bạn lập lá số cho một người hãy tập quy tạng người của họ xem thuộc loại TPVT, SPLT, CNDL, hay CN...,. Sau khi tập hoài thành thói quen, và xác suất lên được 60-70% thì tiếp theo đó, các bạn hãy xem nét mặt và tướng người cho thật kỹ rồi tự đặt sao chính tinh, cũng như một số bàng tinh vào cung Mệnh xem có thể đúng được bao nhiêu phần trăm. Tôi tin rằng nếu các bạn cứ tập như vậy một thời gian các bạn sẽ ngạc nhiên, với sự chính xác mà các bạn có thể làm. Ngày trước khi tôi xem số ai đều đặt sao trước khi xem số, hoặc khi gặp một người có nét hay tướng lạ, hoặc có cách ăn nói, hay cữ chỉ lạ, tôi đều tìm đủ mọi cách để xin cho được lá số về nhà nghiên cứu. Tất cả những gì viết ở trên là do tôi ráng nhớ lại những kinh nghiệm tôi đã xài cách đây 6 năm trước, tiếc là vì hơn 6 năm nay tôi hiếm khi xem Tử Vi mặt đối mặt như ngày xưa, cho nên không nhớ hết và không thể nào đầy đủ được vì đã quên dần theo thời gian. Tôi sẽ tiếp tục cố nhớ lại và nghiên cứu thêm, đồng thời cũng mong các bạn có những tướng cách hay, chia xẻ để chúng ta cùng học hỏi. Đối với tôi đây là một vấn đề lý thú nhất.

Sunday, June 3, 2012

Tiếp về tuần triệt

Tuần và Triệt thực tế ra không phải là hai sao trong Tử Vi nhưng thường được gọi là hai sao cho giản tiện. Trường hợp này cũng giống như vòng Tràng Sinh hay được gọi là sao vậy

Ngũ hành của Tuần Triệt
Triệt thì hành Kim (đới Thủy), còn Tuần thì hành Hỏa (đới Mộc)

Ý nghĩa
Triệt là chém ra thành từng mảnh, là chặt đứt, là cắt thành khúc
Tuần là vây hãm, có tác dụng làm kìm hãm, ngăn chận, cản trở
Điểm khác biệt về ý nghĩa này rất quan trọng cần chú ý khi giải đoán về Tuần Triệt

Cường độ ảnh hưởng của Tuần Triêt nói chung
Triệt tại cung Kim, Tuần tại cung Mộc và Hỏa thì có tác động mạnh hơn các nơi khác

Tỷ lệ ảnh hưởng của Tuần Triệt trên các cung
Tuần Triệt thì luôn luôn án ngữ hai cung và có cường độ ảnh hưởng lên hai cung khác nhau theo nguyên tắc ước lượng như sau:
Người Dương (Dương Nam, Dương Nữ) thì cung Dương bị ảnh hưởng hơn cung Âm, cụ thể cung Dương chịu 70%, cung Âm chịu 30% cường độ
Người Âm (Âm Nam, Âm Nữ) thì cung Âm bị ảnh hưởng nhiều hơn cung Dương, cụ thể ước lượng cung Âm chịu 80%, cung Dương chịu 20%
Khi bị ảnh hưởng mạnh thì ta thường nói bị đương đầu, bị ảnh hưởng yếu thì ta nói bị chận đuôi

Cường độ ảnh hưởng của Tuần Triệt theo thời gian
Triệt ảnh hưởng mạnh mẽ trong thời gian 30 năm đầu, tùy theo Cục mà có khác biệt (như Thủy nhị cục thì 32 năm đầu), sau đó thì từ từ yếu đi nhưng không thể coì là không có
Tuần thì ngược lại, ảnh hưởng không đáng kể vào khoảng 30 năm đầu, nhưng mạnh sau đó
Hai yếu tố trên rất quan trọng nhưng thường bị coi thường khi coi về Tuần Triệt, nhất là khi coi đại hạn. Cường độ ảnh hưởng từ yếu đến mạnh tạm được sắp xếp theo thời gian như sau:
Dưới khoảng 30 tuổi
Tuần chặn đuôi
Tuần đương đầu
Triệt chặn đuôi
Triệt đương đầu
Trên khoảng 30 tuổi
Triệt chặn đuôi
Triệt đương đầu
Tuần chặn đuôi
Tuần đương đầu
Trong từng trường hợp trên thì cũng có diễn biến động của riêng nó, bởi vì quá trình thay đổi của Tuần Triệt là quá trình biến đổi, Tuần thì từ từ mạnh lên, Triệt thì từ từ giảm xuống. Như vậy trong trường hợp tuần chặn đuôi khi chưa đến 30 tuổi thì sẽ nhẹ nhất vào lúc 1 tuổi và mạnh nhất vào khoảng 30 tuổi. Nhận định này nên được bổ xung chú ý khi coi đại hạn

Tuần Triệt là hai sao có rất nhiều ảnh hưởng được liệt kê dưới đây, có thể sự phân tích có những trùng lập nhưng để làm sáng tỏ vấn đề Tuần Triệt hơn

Ảnh hưởng của Tuần Triệt lên các cung
Thông thường thì đóng tại cung nào thì Tuần Triệt sẽ gây trục trặc cho cung đó bất kể là đương đầu hay chặn đuôi, trừ khi đóng tại cung Vô Chánh Diệu trong trường hợp khống có hung tinh đắc địa hoặc tại Tật Ách thì hợp. Đây là điểm quan trọng bởi vì chưa cần coi các sao trong cung, người ta đã có thể nêu sơ lược được vài điểm trong cuộc sống vì thông thường Tuần Triệt đóng tại 4 cung trong tổng số 12 cung
Tuần Triệt đương đầu tại Mệnh thì thuở nhỏ cực khổ gian nan (nhưng nếu gặp chính tinh lạc hãm thì đỡ hơn), tại Thân thì khi lập nghiệp sẽ gặp khó khăn ban đầu. Nếu chặn đuôi thì đỡ hơn. Thân Mệnh đồng cung gặp Tuần Triệt đương đầu thì coi như nếu có sự nghiệp trước 30 tuổi thì phải bị gãy đổ rồi bắt lại từ đầu trong giai đoạn lập thân
Tuần Triệt đóng tại Quan thì gây trục trặc cho quan trường nghề nghiệp như lận đận, hay phải thay đổi, không bền vững, thăng giáng. Tùy theo bị chặn đuôi hoặc đương đầu và gặp Tuần hay Triệt mà lận đận nhiều hay không. Vì quan trường có ý nghĩa nổi bật trong giai đoạn lập thân nên cần chú ý phân biệt giữa Tuần và Triệt vì Tuần có tác dụng mạnh hơn về hậu vận
Tuần Triệt đóng tại cung Tài thì tiền bạc tụ tán, lúc có lúc không, trừ khi vào đại vận tốt, và thường bị gặp khó khăn khi kiếm tiền. Tạo lập điền sản rất quan trọng trong giai đoạn lập thân nên, do đó gặp Tuần thì nên chú ý. Dù gì đi chăng nũa mà bị Tuần Triệt thì hầu như khó giàu có lớn được trừ trường hợp VCD đúng cách (ví dụ có Nhật Nguyệt sáng sủa chiếu)
Tuần Triệt đóng tại cung Thiên Di thì ra ngoài không lợi, ly hương thì tốt hơn
Tuần Triệt đóng tại cung Điền thì không được hưởng di sản của cha mẹ để lại, phải tự lập và thường bị gặp trục trặc trong vấn đề mua bán điền sản. Tạo lập điền sản rất quan trọng trong giai đoạn lập thân nên, do đó gặp Tuần thì nên chú ý. Dù gì đi chăng nũa mà bị Tuần Triệt thì hầu như khó giàu có lớn được trừ trường hợp VCD đúng cách (có Nhật Nguyệt sáng sủa chiếu)
Tuần Triệt đóng tại cung Phúc thì khiến họ hàng ly tán, không ở gần nhau, thường phải ly hương
Tuần Triệt đóng tại cung Phối thì gây trục trặc cho tình duyên hôn nhân như tình đầu tan vỡ, lập gia đình trễ, lập gia đình sớm thì gia đạo bất hòa dễ trục trặc dễ đưa đến chia ly, hoặc là yếu tố đưa đến không chồng không vợ. Cung Phối xấu xa mờ ám thì nên gặp Tuần hơn Triệt vì gặp Tuần thì về sau gia đạo dễ hạnh phúc hơn Triệt. Cung Phối đẹp đẽ gặp Triệt thì tuy có bị trục trặc ban đầu nhưng về sau thì vợ chồng cũng sống với nhau được...
Tuần Triệt đóng tại cung Nô thì bạn bè, người giúp việc lúc tụ lúc tán, không bền
Tuần Triệt đóng tại cung Tử thì gây trục trặc cho vấn đề con cái như không con, muộn có con, sinh con đầu lòng khó nuôi, con không hợp với cha mẹ
Tuần Triệt đóng tại cung Bào thì anh chị trưởng dễ chết sớm hoặc cùng khổ cô đơn, hoặc không gần nhau, hoặc dễ không hòa thuận
Tuần Triệt đóng tại cung Tật Ách bất kể là đương đầu hay chăn đuôi thì suốt đời mạnh khoẻ, ít bệnh tật, ít tai họa, tránh được tai họa trừ khi có sao kỵ Tuần Triệt như Thiên Tướng Tướng Quân thì nếu tai họa quá lớn thì lại đưa đến cái chết bất ngờ nhanh chóng
Tuần Triệt đóng tại cung Phụ Mẫu thì ly hương mới dễ làm nên hơn là ở gần cha mẹ, không hợp với cha hay mẹ, hoặc dễ sớm xa cách cha mẹ. Vì Phụ Mẫu có ảnh hưởng trong giai đoạn thiếu niên nên gặp Triệt có khác biệt khi gặp Tuần vì lúc đó Triệt đang mạnh mẽ
Tuần Triệt đóng tại cung hạn thì phải có khó khăn trong hạn đó, nhưng cần xét kỹ thời gian và tỷ lệ ảnh hưởng
Trường hợp Tuần Triệt đồng cung thì ảnh hưởng coi như ảnh hưởng liên tục. Như vậy nếu Tuần Triệt đồng cung tại Phối Tử thì là một bất hạnh trong cuộc sống gia đình, tại Điền Quan thì sự gây dựng sự nghiệp khó khăn, tại Phụ Phúc thì số tự lập, ly hương, bạc phúc...

Ảnh hưởng của Tuần Triệt đối với hành của sao
Sử dụng sự sinh khắc ngũ hành giữa hành của Tuần Triệt với hành sao tọa thủ, lấy hành của Tuần Triệt làm chủ, ta có thể nói rằng:
Nhìn chung thì hành Kim, Hỏa và Mộc bị ảnh hưởng nặng nhất, hành Mộc bị ảnh hưởng của Triệt hơn Tuần (vì Triệt Kim khắc Mộc trong khi đó Mộc sinh Tuần Hỏa) và hành Kim chịu ảnh hưởng của Tuần hơn Triệt (vì Tuần Hỏa khắc Kim trong khi đó Triệt Kim và Kim đồng hành), hành Thủy ít bị ảnh hưởng hơn (vì Triệt Kim sinh Thủy và Thủy khắc Hỏa Tuần), hành Thổ bị ảnh hưởng ít nhất (vì Tuần Hỏa sinh Thổ và Thổ sinh Triệt Kim)
Như vậy nếu chỉ xét về phương diện ngũ hành thì các sao Thổ nhu Ta Huu, Thien Qui, Loc Ton, Hoa Loc, Thien Phuc, Thien Qui, Tam Thai it bi anh huong cua Tuan Triet nhat, cac sao Thuy nhu Hoa Khoa, Van Xuong, Hoa Ky, Long Tri, Song Hao, Hong Loan, Bat Toa it chiu anh huong cua Tuan Triet, cac sao Moc, Kim, Hoa nhu Kinh Da, Khong Kiep, Hoa Linh, Thien Khong, Thien Hinh, Kiep Sat, Tang Mon, Bach Ho, Dao Hoa, Khoi Viet, Hoa Quyen Thien Ma, Phuong Cac, An Quang, Co Qua, Thien Quan chiu anh huong manh me cua Tuan Triet

Ảnh hưởng của Tuần Triệt đối với các loại tinh đẩu
Đối với chính tinh thì bị ảnh hưởng mạnh hơn phụ tinh (phàm cái gì càng mạnh mẽ thì càng bị ảnh hưởng của Tuần Triệt, cũng nên nhớ rằng Hỏa và Kim là hai hành khí mạnh nhất trong các loại hành), trong đó Sát Phá Liêm Tham bị ảnh hưởng mạnh nhất
Về tính chất thì hung sát bại tinh (như Sát Phá Liêm Tham, Không, Kiếp, Kình, Đà, Hỏa Linh, Kiếp Sát, Thiên Không, Kiếp Sát...), tài tinh (Vũ Khúc, Thiên Phủ, Lộc Tồn, Hóa Lộc), quí tinh, quyền tinh (Thiên Tướng, Hóa Quyền, Quốc Ấn...), đào hoa tinh hay dâm tinh (Hồng Đào Riêu Thai...) bị ảnh hưởng mạnh mẽ hơn các tinh đẩu khác như phúc thiện tinh (Quang Quí, Quan Phúc...), trợ tinh (Tả Hữu)...lục bại tinh (Song Hao, Tang Hổ, Khốc Hư)
Tuần Triệt không làm thay đổi tính chất của hung tinh, cát tinh như biến hung tinh thành cát tinh, biến các tinh thành hung tinh mà thực chất thay đổi cường độ hành khí của sao, sự sáng tối của sao tức là thay đổi tính đắc hãm. Tuần Triệt đều ảnh hướng đến tính tình. Phúc Thiện Tinh do bản chất tốt nên hầu như không thấy tính tình bị Tuần Triệt ảnh hưởng về tính tình, nhưng về tài lộc, công danh.. thì dễ thấy. Hung Sát Tinh thì dễ thấy hơn, nhửng bản chất là hung tinh thì đắc hãm cũng tàng hung. Sát Phá Tham hãm địa gặp Tuần Triệt thì tuy sáng ra nhưng cũng có khác Sát Phá Tham đắc vượng miếu. Cái "hiền" của Sát Phá Tham khác cái hiền của Cơ Lương.... Chú ý tài tinh ảnh hưởng mạnh mẽ từ trung vận trở lên

Các trường hợp đặc biệt cần lưu ý
Thiên Tướng, Tướng Quân tối kỵ gặp Tuần hay Triệt cho dù là đắc hay hãm. Thiên Khôi kỵ Triệt hơn Tuần nhưng cần phối hợp các yếu tố khác khi luận đoán tốt xấu
Nhật Nguyệt đắc hãm gặp Tuần Triệt thì sáng lên, gặp Tuần hay hơn Triệt. Nhật Nguyệt miếu vượng gặp Tuần Triệt thì tối lại
Cự Cơ Tí Ngọ rất cần Tuần Triệt
Thiên Phủ kỵ Tuần hơn Triệt, gặp Tuần ví như kho trống không, trong khi gặp Triệt thì chỉ bị hao hụt

Ảnh hưởng của Tuần Triệt đến vấn đề miếu hãm
Sao đắc vượng miếu gặp Tuần Triệt thì giảm hoặc mất hết ý nghĩa tốt đẹp hoặc đôi khi trở thành hãm
Sao hãm địa gặp Tuần Triệt thì lại bớt xấu đi, hoặc trở thành tốt, là phản vi kỳ cách (đặc biệt cho Sát Phá Liêm Tham hãm địa) nhưng phải trải qua gian nan mới tốt được
Chú ý rằng quá trình thay đổi ảnh hưởng từ xấu qua tốt hoặc ngược lại là quá trình chuyển biến nên một sao cho dù sáng lại do ảnh hưởng của Tuần Triệt cũng không toàn vẹn như một sao bản chất là sáng sủa và ngược lại một sao bị tối đi do ảnh hưởng của Tuần Triệt cũng không tối tăm như một sao bản chất là tối hãm.

Tuần Triệt và Âm Dương của sao:
Một số người cho rằng sao Dương thì chịu ảnh hưởng mạnh của Tuần, Triệt hơn sao Âm và bản thân tôi cũng tán đồng ý kiến này (ví dụ Thất Sát Dương Kim thì bị ảnh hưởng mạnh hơn Vũ Khúc Âm Kim)

Ảnh hưởng đến các cung tam hợp xung chiếu
Tuần Triệt chỉ có ảnh hưởng gián tiếp đến cung tam hợp xung chiếu. Sao tại cung bị Tuần Triệt án ngữ bị thay đổi tính chất nên khi chiếu về cung khác cũng khác khi không bị Tuần Triệt. Cách VCD có Tuần Triệt chiếu thiết tưởng chỉ là để nói có Tuần Triệt tại các cung tam hợp xung chiếu mà thôi)
Triệt có tác động cản trở tất cả các hung tinh chiếu về bản cung, không sợ nguy hiểm do các sao này gây ra (Tam phương xung sát hạnh nhất Triệt nhi khả bằng). Tuần thì cản không được mạnh nên vẫn còn bị nguy hiểm phần nào
Tại bản cung có chính phụ tinh hãm địa nếu bị Triệt án thì cũng không đáng lo ngại vì họa hại do chính phụ tinh hãm địa gây ra. Nếu chính phụ tinh sáng sủa thì tùy trường hợp mà luận đoán sử dụng các nguyên tắc coi trên

Tuần Triệt tại cung Vô Chính Diệu (coi phần Vô Chính Diệu)

Tuần Triệt tháo dỡ
Đây là quan điểm do cụ Thiên Lương đưa ra. Mệnh Tuần hay Triệt thì khi đến đại hạn gặp Tuần hay Triệt sẽ tháo dỡ ảnh hưởng của Tuần hay Triệt

Tuần Triệt gặp sao Lưu
Tuần Triệt đồng cung tại tiểu hạn gặp Lưu Triệt thì ảnh hưởng của Tuần Triệt đồng cung sẽ giảm đi
Triệt tại tiểu hạn gặp Lưu Triệt thì ảnh hưởng của Triệt tăng lên
Tuần tại tiểu hạn gặp Lưu Triệt thì ảnh hưởng của Tuần giảm đi

Tóm lại, ngoại trừ trường hợp ngoại lệ, mọi tinh đẩu đắc vượng miếu không nên bị Tuần Triệt án ngữ, tinh đẩu hãm địa rất cần Tuần Triệt cứu giải cái xấu. Khi bị Tuần Triệt án ngữ cần chú ý là bị Tuần Triệt đương đầu hay chặn đuôi và để ý thời gian. Đương nhiên là ý nghĩa của Tuần Triệt rất quan trọng khi giải đoán.
Khi chính tinh sáng sủa hợp Mệnh (như sao sinh Mệnh hay đồng hành) thì không nên bị Tuần Triệt đưa đến phá cách nặng, ví dụ như cung sinh sao, sao sinh Mệnh mà gặp Tuần Triệt thì càng xấu vì sao sinh Mệnh khiến Mệnh tốt lên hẳn mà lại bị Tuần Triệt phá hỏng. Trong trường hợp này nếu Mệnh không hợp với sao thì gặp Tuần Triệt cũng đỡ xấu hơn trường hợp trên
Khi chính tinh lạc hãm khắc Mệnh thì cần được Tuần Triệt án ngữ, trường hợp này lại hay hơn là được chính tinh lạc hãm hợp Mệnh gặp Tuần Triệt. Nói chung là nếu càng xấu về vị trí ( bị hãm) và tương quan ngũ hành (bị khắc) thì gặp Tuần Triệt càng tốt, hễ càng tốt về vị trí và tương quan ngũ hành thì gặp Tuần Triệt càng xấu. Một số người đã diễn tả điều này bằng cách nói Tuần Triệt thay đổi ngũ hành của cụng

Mệnh Tuần Thân Triệt thì ảnh hưởng của Tuần và Triệt lên Mệnh không mạnh được, bởi thế Thái Thứ Lang mới ghi rằng Mệnh Thân cần Cơ Nguyệt Đồng Lương sáng sủa tốt đẹp thì mới được xứng ý toại lòng, nhất là khi về già mới được danh giá và được an nhàn
Mệnh Triệt Thân Tuần thì ảnh hưởng của Triệt và Tuần mạnh mẽ hơn, vì vậy Thái Thứ Lang mới ghi rằng phải cần Vô Chính Diệu thì suốt đời mới được xứng ý toại lòng, được tăng tuổi thọ và về già mới được an nhàn sung sướng
Nói chung điều Thái Thứ Lang ghi ra chỉ là sơ lược. Chúng ta cần phán đoán kỹ hơn dựa vào điều đã viết ở trên. Cần chú ý rằng vì Mệnh Thân đều cư cùng một cung, hoặc Dương hoặc Âm nên nếu Mệnh Tuần Thân Triệt hay Mệnh Triệt Thân Tuần thì cả Mệnh và Thân đều hoặc bị đương đầu, hoặc bị chận đuôi

Vài ví dụ phân tích
Thiên Cơ (Mộc), Thiên Lương (Mộc) miếu địa rất kỵ Tuần Triệt (vì hành Mộc) nhưng là phúc tinh nên cũng đỡ lo ngại, kỵ Triệt hơn Tuần. Trẻ tuổi gặp Tuần chặn đuôi thì cũng khá tốt
Thiên Cơ (Mộc), Thiên Lương (Mộc) nếu hãm địa thì rất cần Tuần Triệt.
Thai Ám sáng sủa gặp Tuần Triệt thì đỡ bị ảnh hưởng hơn so với Thái Dương sáng sủa do hành Thủy
Sát Phá Liêm Tham hãm địa rất cần Tuần Triệt (vì hành là Kim, Hỏa, Mộc và là hung sát tinh)
Sát Phá Liêm Tham đắc vượng miếu kỵ gặp Tuần Triệt vì là hung tinh hành Kim Hỏa Mộc, nhất la Sát và Tham (còn Phá Quân thì đỡ bị ảnh hưởng).
Liêm Tham Tỵ Hợi hãm đia thì gap Tuần Triệt rất tốt, giảm thiểu nhiều tai họa tù tội
Thiên Đồng (Thủy) đắc vượng miếu cung không sợ Tuần Triệt lắm vì là phúc tinh hành thủy, hãm thì lại cần Tuần Triệt
Vũ Khúc (Kim) đắc vượng miếu kỵ Tuần Triệt vì là tài tinh hành Kim
Không Kiếp Tang Hổ đắc thì không nên gặp Tuần Triệt vì là hung tinh đắc đia hành Hỏa, Kim, Mộc mất hết ảnh hưởng hay đẹp
Ví dụ Mệnh Tủ Vi Thiên Tướng cư Thìn (ở Dương cung) bị Tuần. Thiên Tướng bị ảnh huỏng mạnh hơn Tử Vi vì là hành Thủy và do bản chất kỵ Tuần Triệt của nó. Vì là Tuần nên 30 năm đầu chưa bị tai họa (tai nan, bệnh tật...) vì ảnh hưởng Tuần chưa mạnh. Dương Nam, Dương Nữ thì bị Tuần đương đầu, do đó sau 30 tuổi dễ bị tai họa lớn. Âm Nam Âm Nữ thì bị Tuần chặn đuôi nên sau 30 tuổi có gặp tai họa cũng không mạnh được. Mệnh Thổ (ăn sao Tử Vi, khắc sao Thiên Tướng) đỡ bị ảnh hưởng xấu hơn (Tử Vi gặp Tuần không đáng sợ bằng Thiên Tướng) Mệnh Thủy (ăn sao Thiên Tướng mà Tướng lại sáng sủa, khắc sao Tử Vi) (chỉ nêu đại cương khả năng xảy ra, còn cần xét trong bối cảnh Mệnh Thân Phúc Đại Hạn mới quyết định được) &nb sp;
Ví dụ Mệnh Liêm Tham cư Tỵ (cung Âm) là cách hình ngục nan đào gặp Triệt. Vì là Triệt nên 30 năm đầu có tác động mạnh. Cả hai sao đều bị ảnh hưởng mạnh của Triệt vì là hung tinh hành Hỏa và Mộc. Dương Nam, Dương Nữ thì chịu 30 % tác động của Triệt, sau 30 tuổi phải đề phòng tù tội. Âm Nam, Âm Nữ chịu 80 % tác động của Triệt nên không có gì xảy ra 30 năm đầu. Sau đó thì đề phòng nhưng mức độ tù tội nhẹ hơn
Ví dụ Thất Sát (Kim) cư Dần (Dương cung) mạng Kim gặp Tuần, Dương Nam thì chịu 70% ảnh hưởng, 30 năm đầu tuy có bị ảnh hưởng nhưng không đến nỗi nào, sau 30 năm thì bị tác động mạnh mẽ nên bi tai nan hoặc bị bệnh như bệnh tâm thần
Cự Cơ Mão Dậu gặp Song Hao thì là phú cách nhưng gặp Tuần Triệt thì lại là phá cách

CAC CAU PHU VE TUAN TRIET
TUẦN TRIỆT
Tuần Triệt đương đầu, thìếu niên gian khổ (hay tân khổ) (1, B60, B88)
Giải: Mệnh có Tuần Triệt án ngữ thì thuở nhỏ vất vả, lận đận, khổ cực

Tam phương xung sát hạnh Triệt khả bằng, Tứ Chính giao phùng kị Tuần không trực đối (25)
Giải: TVT giải rằng hạn gặp nhiều sao xấu xa từ bên ngoài chiếu vào nhưng tại bản cung có Triệt án ngữ thì sẽ vô hại, nếu bản cung gặp nhiều sao tốt hội chiếu thì rất kị có Tuần án ngữ tại bản cung sẽ cản hết sự tốt đẹp

Mệnh Triệt Thân Tuần tu cần vô hữu chính tinh vãn niên vạn sự hoan thành khả đãi (3)
Giải: Mệnh Triệt Thân Tuần thì cần phải không có chính tinh (vô chính diệu) thì về già mới được xứng ý toại lòng)

Mệnh Tuần Thân Triệt hoan đắc văn đoàn hữu thủ phú quí danh tài cánh phát chung niên (4)
Giải: Mệnh Tuần Thân Triệt thì cần được các Văn tinh (như Cơ Nguyệt Đồng Lương, Khôi Việt, Xương Khúc hội họp) thì trung niên trở lên sẽ giàu sang vinh hiển

TUẦN TRIỆT VỚI PHỤ TINH
Tuần Triệt ngộ Thiên Hình tha hương cách lý (8)
Giải: Thiên Hình bị Triệt Tuần án ngữ thì ly hương

Tuần Triệt bất khả ngộ Lộc Tồn, tư cơ phá họai (10)
Giải: (Mệnh hay Điền Tài có Lộc Tồn tọa thủ gặp Tuần Triệt thì cơ nghiệp bị tan vỡ)

Tọa Quí Huớng Quí chẳng phùng Không xứ, gặp Khoa thời nhất cử thành danh (4)
Giải: Khôi Việt một sao thủ, một chiếu lại gặp Hóa Khoa và không bị Tuần Triệt án ngữ hoặc Thiên Không, Địa Không thì chỉ một lần đi thi đã công thành danh toại

Mệnh Thân dù có lâm Không Kiếp, gia Triệt Tuần chẳng khiếp tai nguy (14)
Giải: Mệnh Thân có Không Kiếp mà gặp Triệt Tuần thì không sợ tai nguy

Khốc Hư ngộ hãm mạc đàm, Quí phùng không xứ ai làm cho nên (7)
Giải: Mệnh có Khốc Hư thì xấu không bàn đến, có Khôi Việt mà gặp Tuần Triệt án ngữ thì chẳng làm được việc gì

Mã bất kiến Không (không gặp Tuần, Triệt, Thiên không, Địa Không) lương gia quân tử (là bậc quân tử con nhà lương thìện gia giáo) (8)
Giải: Thiên Mã không gặp sao Không (Tuần, Triệt, Thiên không, Địa Không) thì là bậc quân tử con nhà lương thìện gia giáo

Mã ngộ không vong chung thân bôn tẩu (5, 11)
Giải: Thiên Mã gặp Tuần hay Triệt án ngữ cả đời long dong nay đây mai đó

Thiên Mã ngộ Tuần không, chung thân bôn tẩu (B68)
Giải: Thiên Mã gặp Tuần án ngữ cả đời long dong nay đây mai đó

Thái Tuế lâm Mệnh cô bần đa hữu thọ, phú quí tắc yểu vong giai do hạn ngộ Lộc hãm Triệt Tuần (32)
Giải: Mệnh có Thái Tuế nếu cô đơn bần cùng thì lại sống lâu. Hạn có Lộc hãm bị Triệt Tuần thì nếu phú quí thì bị chết yểu. TVT giải rằng Mệnh có Thái Tuế Thiên Thọ tọa thủ đồng cung, tài quan Di có Lộc tọa thủ gặp Triệt hay Tuần án ngữ nếu hạn đến cung đó mà phát đạt thì không thọ. Lời giải thích này không đúng

Tuần Triệt bất khả ngộ Lộc Tồn, tư cơ phá hoại (B71)
Giải: Lộc Tồn gặp Tuần hay Triệt thì trở nên xấu, cơ nghiệp bị tan tành


TUẦN TRIỆT TẠI VỊ TRÍ 12 CUNG
Triệt đáo Kim cung (tại Thân Dậu) Tuần lâm Hỏa địa bất kỵ sát tinh bại diệu tai ương sở tác (25)
Giải: Triệt tại cung Kim (Thân Dậu), Tuần tại cung Hỏa (tại Thìn Tỵ hay Ngọ Mùi) gặp sát tinh (như Kình Đà Không Kiếp Hỏa Linh) hay bại tinh (như Song Hao Tang Hổ Khốc Hư) thì không phải lo sợ tai ương họa hại do cac sao do gây ra


TUẦN TRIỆT TẠI CÁC CUNG
Tuần Triệt cư Phụ Mẫu xuất ngoại phương khả thành danh (9, B62)
Giải: Tuần Triệt tại Phụ Mẫu thì sớm xa gia đình xuất ngoại thì sẽ có công danh

Phúc VCD tu cần Không tú, kị ngộ Triệt tinh, nhi phùng Sinh Việt Kỵ Hình vi nhân tiêu trưởng Hỏa (Hỏa Tinh) Khốc (Thiên Khốc) nhập xâm đồng thiết dị thành chân nghiệp (19)
Giải: TVT giải rằng cung Phúc Vô chính diệu thì rất cần sao Không (Tuần Không) nhưng kỵ gặp sao Triệt, gặp Sinh Việt Kỵ Hình thì là người đốn củi hay buôn bán gỗ, gặp Hỏa Tinh, Thiên Khốc thì làm thợ đúc đồng hoặc buôn bán kim khí rất phát đạt, lập nên cơ nghiệp

Phúc hữu chính tinh kị ngộ Triệt Tuần hoặc gia sát diệu (sát tinh) lai ngộ Lưu (Lưu Hà) Kiếp (Kiếp Sát) Cự Đồng thủy nịch tu oan (chết đuối), Phượng (Phượng Cát) Lương (Thiên Lương) hoan ngộ chung thân du tu hư vô (20)
Giải: cung Phúc có chính tinh thì kỵ gặp Triệt Tuần hoặc sát tinh, gặp Lưu Hà Kiếp Sát Cự Đồng thì chết đuối, gặp Phượng Cát,Thiên Lương hãm địa thì cả đời lang thang nay đây mai đó, làm điều tốt cho người nhưng mình thì vẫn chịu nghèo khổ

Phúc tại Khảm cung (cung Tí) Triệt Tuần Tử Kiếp Đồng (Thiên Đồng) Âm (Thái Âm) xâm nhập hữu học vô lương yểu bần chi cách (21)
Giải: TVT giải rằng cung Phúc tại Tí gặp Triệt Tuần Tử Kiếp Thiên Đồng Thái Âm thì có học nhưng không có lương tâm, nghèo hèn và chết sớm

Phúc tọa Dậu cung Tam Không Đà Triệt Kiếp Kình Lưu ( Lưu Hà) Đào (Đào Hoa) tọa củng (thủ chiếu), tán gia bại sản vong hương hựu phùng Tốn Cự Hình Linh vi nhân khất cái bôn hành (22)
Giải: cung Phúc tại Dậu gặp Tam Không Đà Triệt Kiếp Kình Lưu Hà, Đào Hoa thủ chiếu thì gia tài của cải bán sạch, ly hương và chết ở xứ ngoài, nếu gặp Cự Hình Linh thì nghèo khổ phải đi ăn xin

Phúc cư Tốn (tại Tỵ) nhược kiến Triệt cư (tại) Tham Liêm Âm Cự Nam bất thiện nhân, gia hội Đào Hồng Cơ Ky Kiếp Riêu độc phụ chi nhân, hạnh phùng Đế diệu (Tử Vi) Dương Cơ Tướng Mã Vũ Quyền Khoa Tuyệt nữ tất vinh phu lợi tử, nam tài văn võ xuất sử danh ba (24)
Giải: cung Phúc tại Tỵ gặp Triệt Tham Liêm đồng cung hoặc Thái Âm tọa thủ, Cự chiếu thì trong họ đàn ông gian ác bất nhân, nếu gặp Đào Hồng Cơ Ky Kiếp Riêu thì đàn bà nham hiểm thâm độc, nếu gặp Tử Vi, Dương Cơ Tướng Mã Vũ Quyền Khoa Tuyệt thì nữ làm lợi cho chồng con, đàn ông thì văn võ song toàn tiếng tăm lừng lẫy

Mệnh Triệt Thân Tuần tu cần vô hữu chính tinh vãn niên vạn sự hoan thành khả đãi (3)
Giải: Mệnh Triệt Thân Tuần thì cần phải không có chính tinh (vô chính diệu) thì về già mới được xứng ý toại lòng)

Mệnh Tuần Thân Triệt hoan đắc văn đoàn hữu thủ phú quí danh tài cánh phát chung niên (4)
Giải: Mệnh Tuần Thân Triệt thì cần được các Văn tinh (như Cơ Nguyệt Đồng Lương, Khôi Việt, Xương Khúc hội họp) thì trung niên trở lên sẽ giàu sang vinh hiển

Tuần Triệt án ngữ Mệnh Điền, tư cơ cha mẹ không truyền đến cho (11)
Giải: Tuần Triệt tại Mệnh hay Điền thì không hưởng di sản của cha mẹ để lại

Cung Huynh Đệ Triệt Tuần xung củng (án ngữ), chim đầu đàn bay bổng xa khơi (12)
Giải: Cung Huynh Đệ có Triệt Tuần thì anh chị trưởng chết non

Tam Không chiếu nội tao cát diệu, lai Dưỡng tinh (sao Dưỡng) có đạo con nuôi (13)
Giải: cung Tử Tức VCD đắc Tam Không thêm cát tinh gặp Dưỡng thì có con nuôi

Tam Không hội Văn Xương ư Thê cung, thiềm cung triết quế (14)
Giải: Phu Thê VCD có Văn Xương tọa thủ, gặp Tam Không hội họp thì lấy vợ hay chồng là con nhà danh giá

Không phùng Phá (Phá Quân) Tử Phối hao, vợ chồng trắc trở ba tao mới thành (15)
Giải: cung Phu có Phá Quân gặp Không thì phải lấy chồng ba lần mới thành

Triệt Tuần ngộ Mã hành Thê vị, vợ bỏ chồng đào tỵ tha hương (16)
Giải: cung Thê có Thiên Mã gặp Tuần Triệt thì vợ chồng bỏ nhau hoặc phải có lúc xa cách nhau

Triệt Tuần xung khắc chẳng sai, Thiên Hư bất chính cả hai vợ chồng (ở cung Phu Thê) (17)
Giải: Phu Thê có Triệt Tuần thì vợ chồng xung khắc, có Thiên Hư thì vợ chồng bất chính

TUẦN TRIỆT TẠI HẠN
Sát tinh bại diệu Tuần Triệt cư lai bất cập a hành nan phùng tai ách vận lai (26)
Giải: Hạn có Tuần Triệt án ngữ gặp sát tinh (như Kình Đà Không Kiếp Hỏa Linh) hay bại tinh (như Song Hao Tang Hổ Khốc Hư) thì không phải lo sợ tai ương họa hại do các sao trên mang đến

Mão Thìn ngộ Triệt táo đường, Tỵ Ngo phùng Tuyệt cũng thường ôn binh (18)
Giải: hạn gặp Triệt án ngữ tại Mão Thìn thì có sự lôi thôi về bếp núc. Cung Tỵ Ngọ gặp Tuyệt thì bị ôn binh quấy phá

==================
CÁC CÂU PHÚ VỀ TUẦN TRIỆT CHƯA ĐƯỢC SẮP XẾP
Mão Dậu Cự Cơ Ất Tân Âm nữ ích tử vượng phu, bất kiến Triệt, Tuần đa tài thao lược (19, TTL)
Giải: Nữ Nhân tuổi Tân, Ất Mệnh tại Mão Dậu có Cự Cơ thì làm lợi cho chồng con, nếu không gặp Triệt Tuần thì có nhiều tài năng và đảm đang. Chú ý TTL giải rằng không bị Triệt xung chiếu cũng có lý vì tuổi Ất Tân Cự Cơ không bao giờ bị Triệt án ngữ


Cơ Lương đồng chiếu, Mệnh Thân Không, vi tăng đạo (TTL)
Giải: Mệnh Thân có Tuần Triệt án ngữ, có Cơ Lương đồng cung chiếu thì là thầy tu


Tử Phủ đồng cung tối vi phúc hậu , thiết hiềm nội trở Triệt Tuần (33, B66)
Giải: Tử Phủ tại Dần Thân là người rất phúc hậu, nhưng sợ gặp Triệt Tuần thì giảm tốt đi nhiều)


Tử Phủ đồng cung, Tuần Không xâm nhập, Đế vô quyền sở, nan giải hung tinh hạn ngộ (44)
Giải: Tử Phủ tại Dần Thân gặp Tuần Không thì như vua mất hết quyền hành, khó giải hạn xấu có hung tinh xâm nhập tại hạn

Đế tọa Thiên La, Thân cư Triệt xứ, ư Giáp Kỷ nhân chung niên nan toại chí, đa trái thê nhi (60)
Giải: Tử Vi tại Thìn mà cung Thân bị Triệt thì người tuổi Giáp Kỷ thì cả đời khó toại chí, chuyện vợ con đều lận đận oan trái. Chú ý tuổi Giáp Kỷ thì Triệt tại Thân Dậu nghĩa là Thân cư Quan có Liêm Trinh bị Triệt và đối cung Quan là cung Thê có Tham Lang

Tử Vi Thất Sát (tại Tỵ Hợi) gia Không Vong (Tuần Triệt), hư danh thụ ấm (63, TTL)
Giải: Tử Vi Thất Sát tại Tỵ Hợi gặp Tuần Triệt thì là người chỉ có tiếng tăm bề ngoài, nhờ cha mẹ mới có hư danh. Điều này cho thấy Tử Sát kỵ gặp Tuần Triệt bị giảm tốt nhiều

Phúc tại Thủy cung Đế (Tử Vi) cư, Kiếp Kình Suy Triệt giá lâm, ác nhân, đãng tử, mãn kiếp nan toàn (82)
Giải: cung Phúc tại Tí, Hợi có Tử Vi tọa thủ gặp Kiếp Kình Suy Triệt thì là người gian ác, con du đãng, cả đời khó tránh tai họa

Phúc cư Ly (cung Ngọ), Đế cách Tử phùng (gặp Tử Vi), nhược gia Sát diệu, Bại tinh, Tuần Triệt, chung thân hỷ bất cập thời (cả đời không gặp thời) hoan giao Tam Hóa điền viên (nếu gặp một sao của Tam Hóa) túc huởng vô tai (thụ hưởng sung túc, không gặp tai nạn) (83)
Giải: Phúc cư cung Ngọ, có Tử Vi gặp sát bại tinh và Tuần Triệt thì cả đời không gặp thời, nhưng nếu gặp một sao của Tam Hóa thì thụ hưởng sung túc, không gặp tai nạn

Phúc thọ Chấn cung, Đế (Tử Vi) Tham Tướng Phủ hạnh phùng cát tú, Tam Hóa giá lâm (mừng gặp Cát tinh, Tam Hóa) phúc tăng bất tuyệt (hưởng phúc bền bỉ), hựu kiến Triệt Tuần, Tứ Sát (sợ gặp Triệt Tuần Không Kiếp Kình Đà) Mộ tinh (sao Mộ), tất hữu đao thương chi ách (thì gặp tai nạn về gươm giáo), dương mộ lạc di (mộ của đàn ông bị thất lạc) (84)
Giải: Phúc tại cung Mão có Tử Vi Tham Lang hoặc Tướng Thiên Phủ nếu gặp cát tinh, Tam Hóa thì hưởng phúc bền bỉ, nhưng nếu gặp Triệt Tuần Không Kiếp Kình Đà thì gặp tai nạn về gươm giáo, mộ của đàn ông bị thất lạc

Khôn cung (cung Thân) Phúc tọa (cung Phúc Đức tại Thân), nhi phùng Tử Phủ Đồng Lương Cơ Nguyệt tu kiến (cần gặp) Hổ (Bạch Hổ) Hình Tam Hóa phùng thời loạn thế (gặp thời loạn mà làm nên), thanh bình khanh hiển (gặp thời bình thì vinh hiển), nhược kiến (sợ gặp) Không tinh sát diệu (Tuần Triệt sát tinh) phù trầm ảo ảnh (công danh như phù du không bền), nhàn sự nhàn lai chi phúc hạnh (nếu không đua chen danh lợi thi hưởng phúc) (85)
Giải: cung Phúc Đức tại Thân có Tử Phủ, Đồng Lương hay Cơ Nguyệt nếu gặp Bạch Hổ, Thiên Hình, Tam Hóa gặp thời loạn mà làm nên, gặp thời bình thì vinh hiển nhưng nếu gặp Tuần Triệt sát tinh thì công danh như phù du không bền, nếu không đua chen danh lợi thi hưởng phúc

Càn địa (cung Dần) Phúc cư tối hỉ Tam Kỳ (Phúc tại Dần mừng gặp Khoa Quyền Lộc) đế cách (Tử Vi), Phượng Long, Phụ Bật thị phát võ công Hầu tước (phát về võ nghiệp, làm đến tước Hầu), mạc phùng (nếu gặp) Triệt, Kỵ, Mã Hình Xương Khúc hiển thân ngoại xứ (hiển đạt nơi xứ người), ưu hiềm đinh tử (lo lắng vì hiếm con) (86)
Giải: Phúc tại Dần mừng gặp Khoa Quyền Lộc, Tử Vi, Phượng Long, Phụ Bật sẽ phát về võ nghiệp, làm đến tước Hầu, nhưng nếu gặp Triệt, Kỵ, Mã Hình Xương Khúc thì tuy hiển đạt nơi xứ người nhưng lại lo lắng vì hiếm con

Nhật Nguyệt Sửu Mùi ái ngộ Tuần không (cần được Tuần án ngữ) Quí Ân (Ân Quang, Thiên Quí) Xương, Khúc ngoại triều (hội chiếu), văn tất thượng cách, đường quan xuất chính (17, TTL)
Giải: Nhật Nguyệt Sửu Mùi cần được Tuần án ngữ có Ân Quang, Thiên Quí, Xương, Khúc hội chiếu thì văn tài lỗi lạc, có quyền cao chức trọng (chú ý rằng không đề cập đến Triệt

Nhật Nguyệt Sửu Mùi, Âm Dương hỗn hợp tự giảm quang huy (giảm mất ánh sáng) kị phùng (kị gặp) Kiếp, Triệt (Địa Kiếp và Triệt án ngữ), nhược lai văn diệu (nếu gặp Xương Khúc), diệc kiến Quí Ân (Ân Quang, Thiên Quí), Không Linh Thai Tọa Khôi Hồng (Hồng Loan) văn tài ngụy lý, xuất sử thành công (18)
Giải: Nhật Nguyệt Sửu Mùi thì giảm mất ánh sáng nên kị gặp Địa Kiếp và Triệt án ngữ, nếu gặp Xương Khúc, Ân Quang, Thiên Quí, Không Linh Thai Tọa Khôi Hồng văn tài lỗi lạc, lý luận sắc bén, biết tiến thoái xử sự đúng lúc nên công thành danh toại, vinh hiển. Câu này hơi khác câu trước một chút và nên cẩn thận xét lại

Âm Dương Tuần Triệt tại tiền, mẹ cha định đã qui tiên thuở nào (17)
Giải: Phụ Mẫu có Nhật hay Nguyệt tọa thủ gặp Tuần Triệt án ngữ thì cha mẹ mất sớm

Âm Dương lạc hãm tu cần Không diệu, tối kỵ Sát tinh
Giải: Nhật Nguyệt hãm địa cần sao Không (Tuần Triệt án ngữ hay Thiên Không, Địa Không hội hợp), rất sợ gặp sát tinh

Phúc tại Tí Ngọ Đồng Âm Kiếp Tử (sao Tử) đãn hiềm Triệt Tuần, hữu học vô lương, tiện cách (21)
Giải: Cung Phúc có Đồng Âm tại Tí Ngọ gặp Kiếp, Tử,
Triệt, Tuần thì là người có học nhưng không có lương tâm, bất chính, không nghèo hèn thì chết non

Phủ cư Địa Võng (cung Tuất) nhược lâm Tuần Không (gặp Tuần) cô Nhâm, Đinh tuế (tuổi Nhâm và Đinh) mãn thế sự bảo hoài (cả đời không đạt ý muốn) nạn phùng vận lo (4)
Giải: tuổi Nhâm và Đinh có Liêm Phủ tại Tuất gặp Tuần thì cả đời không đạt ý muốn, hay gặp nạn và lo lắng. Chú ý chỉ có tuổi Đinh Mão và Nhâm Thân thì mới bị Tuần án ngữ. Tuổi Đinh Mão có Liêm Phủ Long Đức bị Tuần, có Lộc Tồn Thiên Trù, Thiên Quan Quốc Ấn Trực Phù Thiên Hỉ tam hợp chiếu, có Thiếu Dương Thiên Không xung chiếu và Vũ Tướng tại Dần bị Triệt. Tuổi Nhâm Thân thì Liêm Phủ Đà Thiên Quan Tang Môn Thiên Khốc bị Tuần, có Quyền, Thiên Phúc, Hóa Kỵ, Hao, LNVT, Mã Phượng Cát Giải Thần, Thiên Hư, Điếu Khách tam hợp, có Thất Sát, Đường Phù, Bạch Hổ, Hoa Cái gặp Triệt

Thiên Phủ kị ngộ Không Tinh (Tuần Triệt) lai nhập Tài cung (ở cung Tài) tán hao vô độ (5)
Giải: cung Tài có Thiên Phủ gặp sao Không (Tuần Triệt) thì tiền tài rất hao tán

Phủ phùng Không xứ tài suy, thủy chung nan báo tư cơ lưu truyền (22)
Giải: cung Tài có Phủ gặp Tuần Triệt thì trước sau không giữ được sản nghiệp tổ tiên truyền lại

Thiên Phủ tối kỵ Không Tinh (tối kỵ Tuần Triệt) nhi ngộ Thanh Long phản vi cát tường (3)
Giải: Thiên Phủ tối kỵ gặp Không Tinh (Tuần Triệt) nhưng gặp Thanh Long thì lại trở thành tốt

Tham Lang cư Tí, thử thiết vô nghi ngộ Triệt Tuần phản vi đoan chính (28, TTL)
Giải: Tham Lang tại Tí thì trộm cắp, gian xảo, nói láo, gặp Triệt Tuần thì lương thiện, ngay thẳng, biết giữ lời

Phá Quân Thìn Tuất nhi ngộ Khoa Tuần cải ác vi lương ư hợp Mậu Quí nhân (tuổi Mậu Quí) đa hoạch danh tài (6, TTL)
Giải: TTL giải rằng Phá Quân tại Thìn Tuất gặp Khoa đồng cung, Tuần án ngữ thì lại trở thành lương thiện, thẳng thắn, tuổi Mậu, Quí thì hoạch phát về tài danh. Chú ý tuổi Ất có Khoa xung chiếu, tuổi Mậu phải có Hữu Bật mới có Khoa, tuổi Tân có Văn Khúc mới có Khoa, còn tuổi Quí không có Khoa. Như vậy câu phú này cần giải thích là gặp Khoa hay Tuần mới có nghĩa

Triệt Tuần ngộ Mã hành Thê vị,
Vợ bỏ chồng đào tị tha hương (NMB, VT)
Triệt Tuần ngộ Mã, Hình Thê vị,
Vợ bỏ chồng đào tị tha phương (QXT)
(vợ bỏ chồng trốn đi nơi xa)

Triệt Tuần đóng ở Mệnh Điền,
Tư cơ cha mẹ không truyền đến cho
Triệt Tuần đóng ở cung Điền,
Tư cơ cha mẹ không truyền đến cho (QXT)
Triệt Tuần đóng ở Mệnh viên,
Tư cơ cha mẹ không truyền đến cho (VT)
Triệt, Tuần đóng ở Mệnh cung,
Thiếu niên tân khổ lo toan mọi đường
Mệnh, Điền Tuần Triệt đương đầu,
Tư cơ cha mẹ khó cầu khó mong

Bệnh Phù , Thái Tuế dở thay,
Ở cung Tứ Mộ hợp bày Thiên Thương
Không Kiếp đóng ở Mệnh phương,
Triệt Tuần án ngữ tránh đường họa tai

Mão Thìn ngộ Triệt táo đường,
Tỵ Ngọ phùng Tuyệt cung thường ôn binh
Mão, Thìn ngộ dã dành ông Táo,
Ly (cung Ngọ), Tốn (Tỵ) phùng phải Cáo, ôn binh (QXT)
(Triệt cư ở Mão Thìn thì thường có sự lôi thôi trong bếp. Cung Tỵ Ngọ gặp Tuyệt thì thường bị ôn binh đến quấy nhiễu) (B40)

Mệnh Thân dù có lâm Không Kiếp,
Gia Triệt Tuần chẳng khiếp tai nguy (B41)
Mệnh, Thân, Dậu đồng lâm Không Kiếp,
Gia Triêt, Tuần phải khiếp gian nguy (QXT)

Cung Huynh Đệ Triệt Tuần xung củng (xung thủ),
Chim đầu đàn bay bổng xa khơi
(Anh chị trưởng bị chết) (B41)

Triệt Tuần ngộ Thiên Hình cách lý,
Người một phương chẳng thấy họ hàng (QXT, anh em lưu lạc)
Triệt Tuần ngộ Thiên Hình đóng đấy,
Người một phương niên ký tha hương
(Thiên Hình cư Mệnh Thân gặp Tuần Triệt thì ly hương)

Triệt Tuần xung khắc chẳng sai,
Thiên Hư bất chính cả hai vợ chồng
(Ở cung Phu Thê) (B47)

Nhật Nguyệt hãm ở bên Tuần Triệt,
Đọc thơ Nga khôn xiết đau lòng (ý nói cha mẹ chết sớm) (B107)

Người nội trợ phương xa lộn bỏ,
Vì Thê cung Mã ngộ Triệt, Tuần (Cung Thê có Triệt Tuần thì vợ bỏ chồng đi nơi xa) (B109)

Chiết Túc: Đà Mã sum vầy,
Tử Mã: Tuần Triệt đêm ngày khảm kha
Tuần Triệt hội Mã Mệnh viên,
Ấy là ngựa chết đời liền gian chuân

Tuần với Triệt lòng không ổn định,
Tuế vối Tham xuất tính đa đoan (NMB)

Triệt Tuần ngộ Mã hành Thê vị,
Vợ bỏ chồng đào tị tha hương (NMB, VT)
Triệt Tuần ngộ Mã, Hình Thê vị,
Vợ bỏ chồng đào tị tha phương (QXT)
(vợ bỏ chồng trốn đi nơi xa)
Người nội trợ phương xa lộn bỏ,
Vì Thê cung Mã ngộ Triệt, Tuần (Cung Thê có Triệt Tuần thì vợ bỏ chồng đi nơi xa) (B109)

Người nội trợ phương xa lộn bỏ,
Vì Thê cung Mã ngộ Triệt, Tuần (Cung Thê có Triệt Tuần thì vợ bỏ chồng đi nơi xa) (B109)

Liêm Trinh, Tham thủ lo âu,
Trẻ trong Tuần Triệt đường đầu đắng cay (Mệnh Tuần Triệt thì tuổi trẻ vất vả) (B114)

Kiếp Không Thái Tuế suy vi,
Lộc Mã ngộ Triệt ích gì nữa mong

Mã, Lộc hãm Không Vong Tuyệt Bại,
Sợ Kiếp Không hợp Thái Tuế xung
Giầu tổn thọ, khó duyên sinh,
Phù Thân giúp Mệnh hạn hành khác nhau (B158)

Tấu Thư chưa có bao giờ,
Tuần Không ngộ Kỵ rõ ràng sứt môi (B183)

Thân, Mệnh Cự Môn Tí Ngọ chuẩn,
Phùng Triệt, Tuần ngọc ẩn thạch trung
Cách này phú quí vô song,
Cự phùng Quyền Lộc cũng đồng vinh xương (AB)

Thiên Tướng chẳng kỵ sát tinh,
Chỉ hiềm Triệt lộ đầu mình phân hai (AB)
Tướng miếu hoặc hãm gặp ngay,
Tuần Triệt án ngữ thân nay khó toàn (HC)
Hoặc bị súng đạn đao gươm,
Tứ chi đầu mặt tật thương đó mà (HC)

Mệnh Nhật, Nguyệt gặp Triệt Không,
Đóng cung Giải Ách hợp cùng Hỏa Linh,
Có Kình Đà Kỵ khá kinh,
Lưng còng, mắt chịu tật hình chẳng ngoa (HC)

Nguyệt hãm gặp Triệt Không thành quí,
Chỉ sợ Hình Riêu tỵ mục nguyền (HC)
Hạn gặp Nguyệt Kình Đà đáng ngán,
Ấy nhân ly, tài tán phải phòng (HC)
Nguyệt hãm gặp Triệt Không thành quí,
Chỉ sợ Hình Riêu tỵ mục nguyền (HC)
-------------


Xét xem phú quí mấy người,
Mệnh VCD trong ngoài Tam Không
(Mệnh VCD lại được Tam Không thủ chiếu thì phú quí. Theo QXT thì Tam Không là Thiên Không, Địa Không và Tuần Không)
Mệnh VCD như ai,
Giầu sang vì gặp trong ngoài Tam Không (VCD gặp Tam Không thủ chiếu thì giầu sang) (B104)
Mệnh VCD đấy đầy,
Phụ Bật đơn thủ, ấy thì ly tông (B180)


Những người Mệnh lý phùng Không,
Cát vô, hung hữu, công danh chớ màng

Danh lưỡng diệu (Âm Dương) huy quang sớm có,
So Tam Không độc thủ sang giầu (B114)

Phủ (Thiên Phủ) phùng Không xứ tài suy,
Thủy chung (chung thân) nan bảo tư cơ lưu truyền (Thiên Phủ gặp Tuần, Triệt, Địa Không, Thiên Không thì tiền tài bị suy kém, không giữ được tổ nghiệp)

Hoặc là Thiên Phủ phùng Không,
Tư cơ số ấy thủy chung khó toàn (Thiên Phủ phùng Không thì không thể giữ được sản nghiệp) (B103)

Khốc Hư hạn ấy đừng bàn (Hạn gặp Khốc Hư thì xấu),
Quí không nên quí vì đoàn Tam không (quí tinh gặp Tam Không thì không còn quí hiển) (B103)

Mệnh Vô chính diệu Tam Không,
Nhật Nguyệt giao chiếu dự phần công khanh

Tam không chiếu nội tao cát diệu,
Lại Dưỡng tinh có đạo con nuôi
Tam không, gia nội tao cát diệu,
Ngộ Dưỡng tinh cũng nẻo con nuôi (QXT)
(Tử Tức không có chính diệu đắc Tam không, có cát diệu lại có sao Dưỡng thì có con nuôi) (B42)

Đồng Riêu ý ngoại chẳng bàn,
Tứ Không ngộ Mã nhiều đoàn bướm ong
Có Riêu, ấy ngoại tình bàn,
Tử, Không ngộ Mã lắm đành bướm ong (QXT, lấy vợ giang hồ)
(lại có Thiên Đồng Thiên Riêu thì ngọai tinh. Bốn sao Không gặp Mã thì lẳng lơ ong bướm) (B45)

Đào Riêu hội bên mình khá rõ,
Không, Quí, Hình, Tử Phủ ngoại dâm

Lo về Thiên Mã phùng Không,
Gặp sao Phụ Bật một vùng sanh đôi
Ngại hiềm Mã ngộ Không vong,
Gặp sao Tả Hữu hạn phùng cả đôi
(tại cung Tử thì có con sinh đôi)

Mã chẳng gặp với Không ở đó,
Người từ nhân nhà họ lương gia
Mã chẳng gặp Tử Không ở đó,
Thời con nhà vọng tộc lương gia (QXT, cung Phối)
(Mệnh có Mã không gặp Không thì là người hiền hậu con nhà gia giáo) (B45)

Lo âu ấy Mã Không quản vận (Hạn gặp Thiên Mã gặp Không thì nhiều lo âu)
nhiều việc thì Tả Hữu luu nien (Han gặp Tả Hữu thì nhiều công việc) (B110)

Việt, Đà tiếng nói khoan thai,
Đồng, Không, Hư, Nhận (Kình Dương) lắm lời thị phi

Tang, Không, Khốc, dị sinh hoán cải,
Để di truyền vạn đại về sau (QXT, cung Phối)

Thiên Cơ ngộ hãm chẳng hay,
Ở phương địa này hiện quái Mộc tinh
Thiên Cơ ngộ Hỏa chẳng hay,
Phùng Không, Kiếp Mộc nở đầy quải lưu (QXT)
(Thiên Cơ hãm địa ở phương nào thì ở phương ấy có yêu quái Mộc tinh. QXT ghi rằng Điền có Cơ ngộ Hỏa thì nhà bị cháy, có Không, Kiếp Mộc Dục ngộ Cơ thì có ma Mộc)

Cơ, Lương, Sát, Phá ngộ Không (Không Vong),
Dấn thân cửa Phật khỏi vòng ưu tư (HC)

Quan cung Tham Vũ cùng xâm,
Đường mây thuở ấy hải lâm bôn trì (NMB, VT)
Quan, Không, trùng kiến Vũ, Tham
Đường mây thuở ấy đã cam bôn trì (QXT)
(Quan gặp Tham Vũ miếu vượng thì bôn ba lên rừng xuống bể. QXT cho rằng Quan Vũ, Tham gặp Tuần, Trệit, Địa Không thì đi làm xa hoặc nay đây mai đó)

Không (sao Không) phùng Phá tú (Phá Quân) Phối hào (cung Phối)
Vợ chồng trắc trở ba tao mới thành (NMB, VT
Không ngộ Phá, Tú Thê hào
Vợ chồng cách trở ba tao mới thành (QXT)
(Phu có Phá phùng Không thì lấy chồng ba lần mới thành)

Khốc Hư ngộ hãm mạc đàm,
Quí phùng Không xứ ai làm cho nên
Khốc Hư ngộ hạn mạc đàm,
Hạn phùng Không Kiếp ai làm cho nên (QXT)
Khốc Hư Tí Ngọ mạc đàm,
Quí phùng Không xứ ai làm cho nên (VT)
(Khốc Hư hãm thì không nói đến, Khôi Việt gặp Tuần Triệt Thiên Không Địa Không thì không làm nên được)


Mắt to mắt nhỏ ấy là,
Nhật phùng Không hãy đoán ra rõ mười

Đồng Riêu ý ngoại chẳng bàn,
Tứ Không ngộ Mã nhiều đoàn bướm ong
Có Riêu, ấy ngoại tình bàn,
Tử, Không ngộ Mã lắm đành bướm ong (QXT, lấy vợ giang hồ)
(lại có Thiên Đồng Thiên Riêu thì ngọai tinh. Bốn sao Không gặp Mã thì lẳng lơ ong bướm) (B45)

Cung Huynh Đệ Thiên Không Địa Kiếp,
Tiếng viên tỳ thu xếp cùng ai (B105)


Sửu Mùi Nhật Nguyệt xem qua,
Đối cung có mệnh ắt là rạng danh
Cùng cư Mùi, Sửu cho minh,
Tam phương vô cát khó thành được công
Bấy giờ cần gặp Tuần Không,
Ân Quang Thiên Quí Khúc Xương chiếu miền
Cũng là văn cách thánh hiền,
Khác nào Nhật Nguyệt cát tinh hợp cùng (HC)

Thìn Tuất Tướng ngộ Thiên Không,
Cát tinh gia hội uy trong quyền ngoài (HC)

Như sinh xứ ngộ Địa Không,
Ấy người yểu triết khoảng chừng trung niên
Vì an Mệnh tại Hợi viên,
Tí thời sinh giả khôn yên được minh
Tỵ an Mệnh Ngọ thời sinh,
Phùng Không ấy, hẳn bỏ mình thiếu niên
Mệnh, Thân ngộ Kiếp chẳng yên,
Bại tài, gia Sát Kỵ phùng càng hung
Ai bằng Hạng Vũ anh hùng,
Đại tiểu hạn gặp Địa Không bỏ mình

MỆNH VÔ CHÍNH DIỆU VÀ TAM KHÔNG
Mệnh VCD hoan ngộ Tam Không hữu Song Lộc, phú quí khả kỳ (2)
Giải: Mệnh VCD thì cần có Tam Không, nếu có Song Lộc thì hưởng phú quí nhưng không bền

Mệnh VCD đắc Tam Không phú quí khả kỳ (7)
Giải: TVT giải rằng Mệnh không có chính tinh tọa thủ được Địa Không, Tuần Không, Thiên Không thủ chiếu thì được hưởng phú quí

Tam Không độc thủ, phú quí nan toàn (5, B60)
Giải: TVT giải rằng Mệnh VCD có Tam Không thủ chiếu không gặp Tam Hóa hội họp thì phú quí khó toàn vẹn. NMB không đề cập rằng phải là Mệnh VCD, chỉ ghi rằng Tam Không chiếu thủ thân Mệnh không có Tam Hóa thì phú quí khó toàn

Tam Không độc thủ, Tam Kỳ gia hội, phú quí song toàn (7)
Giải: Mệnh VCD đắc Tam Không gặp Khoa Quyền Lộc hội họp thì được hưởng phú quí

Tam Không bất kỵ chủ sự vô hữu chính tinh tu hướng, giao phù cát diệu tu phòng Tuần Triệt (7)
Giải: Cung nào VCD tức mờ ám xấu xa nhưng được Tam Không hội họp thì tốt đẹp, ngược lại nếu cung tam hợp xung chiếu và nhị hợp có nhiều sao sáng sủa tốt đẹp nhưng bản cung bị Tuần Triệt án ngữ thì xấu

Mệnh VCD nhị duyên sinh (19)
Giải: TVT giải rằng Mệnh VCD nhưng được nhiều cát tinh hội họp thì vẫn được hưởng giàu sang phúc thọ

Thursday, May 31, 2012

ĐỊNH GIỜ TRONG TỬ VI


ĐỊNH GIỜ

Lập thành một lá số, tối quan trọng là phải định đúng giờ sinh, vì nếu sai giờ thì coi như sai hoàn toàn. Cứ hai giờ đồng hồ bằng một giờ Tử Vi. Xin xem bảng dưới đây:

GIỜ ĐỒNG HỒ     GIỜ TỬ VI   
Từ 23:01 -- 1:00   Tí     
Từ 1:01 --- 3:00   Sửu    
Từ 3:01 --- 5:00   Dần   
Từ 5:01 --- 7:00   Mão    
Từ 7:01 --- 9:00   Thìn   
Từ 9:01 -- 11:00   Tỵ   
Từ 11:01 - 13:00   Ngọ
Từ 13:01 - 15:00   Mùi    
Từ 15:01 - 17:00   Thân   
Từ 17:01 - 19:00   Dậu    
Từ 19:01 - 21:00   Tuất   
Từ 21:01 - 23:00   Tuất

XÁC ĐỊNH GIỜ NGỌ KHÁC GIỜ ĐỒNG HỒ:

a. Cách xác định giờ Ngọ ở Ngoại Quốc theo vệ tinh

Sự thật, muốn biết đúng giờ Tử Vi không phải là đơn giản. Vì giờ Ngọ của Tử Vi là lúc mặt trời đứng bóng mà lắm lúc giờ đồng hồ lại là 11 giờ hoặc 1 giờ, cho nên thiếu thì phải cộng thêm, và dư thì phải trừ bớt. Điển hình như ở Mỹ, lệ vào tháng Tư, lúc 2 giờ sáng (2:00 a.m.) ngày Chủ Nhật của tuần lễ thứ nhì cho đến 2 giờ sáng ngày Chủ Nhật của tuần lễ cuối phải trừ đi một giờ. Thí dụ: nếu sanh 10 giờ, trong thời gian nầy, thì tính là 9 giờ. Nói chung thế giới ngày nay đa số đều dùng giờ tiệm quang này cho mỗi năm.

Trên đây mới chỉ là "lệ" cần ghi nhớ thôi. Ngoài ra các bạn cần phải vào những website dưới đây để tìm giờ Chính Ngọ (Sun Transit) theo từng Tiểu Bang và từng Thành Phố.

http://aa.usno.navy.mil/data/docs/RS_OneDay.html

http://www.wunderground.com/

Tóm lại một em bé hay một người sinh ở ngoại quốc, chúng ta cần phải biết rõ thành phố họ sinh ra mới có thể tìm chính xác giờ sinh của họ. Thí dụ:

Một em bé sinh ra ở Bakersfield California 11:15 AM sáng thì thuộc giờ Ngọ vì giờ Chính Ngọ của Bakersfield là 12:09 PM trưa, tức giờ Ngọ là 11:09-1:09. Nhưng em bé đó nếu sinh ra ở Monterey California thì lại thuộc giờ Tỵ, vì giờ Chính Ngọ ở Monterey là 12:21 PM trưa, tức giờ Ngọ là 11:21-1:21.

Tuy nhiên vấn đề này giải quyết như thế vẫn chưa phải tuyệt đối. Vì theo "aa.usnno.navy" thì trể hơn www.wunderground.com or .org 2 phút. Dĩ nhiên, "aa.usno.navy" thì đáng tin tưởng hơn vì của bộ quốc phòng Mỹ, nhưng rồi cũng sẽ không tránh được những trường hợp sinh đúng ngay giữa ranh giới của giờ này và giờ kia. Khi vấn đề này xảy ra cũng bắt buộc phải lập hai lá số để dựa theo đó mà xác định thôi.
***

Lại có người cho rằng sinh ở Mỹ thì phải đổi ra giờ Việt Nam, nhưng nói như thế là không đúng! Vì con người được hình thành do Âm-Dương, tức cha mẹ. Rồi lớn lên vẫn phải tiếp tục bị chi phối bởi Âm-Dương: trong cơ thể là sức khoẻ và bệnh tật, còn sự nghiệp bên ngoài xã hội là thời vận.

Tử Vi là môn khoa học dự đoán cuộc đời con người có hệ thống Âm-Dương hẳn hòi. Như ta biết ngày là Dương, đêm là Âm; đứa bé còn trong bụng mẹ là Âm (Dương trong Âm), khi ra khỏi bụng mẹ mới thực thụ là Dương. Vậy nên, khi đứa bé ra đời ở nơi nào thì phải dùng ngày hoặc đêm ở nơi đó mà định Âm-Dương!   Nếu sinh ở Mỹ mà đổi ra giờ Việt Nam thì làm sao định Âm-Dương? Vả lại, giờ Tử Vi là giờ mặt trời như đã nói ở trên, vậy giờ Việt Nam dựa vào đâu để làm giờ chuẩn?Thật ra, Ấn Độ mới là nước đứng (giữa) trung tâm của thế giới! Vậy tại sao không dùng giờ Ấn Độ?

b. Cách xác định giờ Ngọ ở VN theo vệ tinh

Dĩ nhiên, như chúng ta đã biết, giờ Bói Toán, Tử Vi là giờ tính theo mặt trời, nên những vùng cao nguyên ở VN, chắc chắn mặt trời phải chiếu đến sớm hơn 5-10 phút so với những vùng đồng bằng thấp. Phần sau đây là theo vệ tinh nhân tạo để đo lường độ chính xác khi mặt trời đứng bóng, tôi xin làm một bảng thống kê dựa theo http://www.wunderground.com/cgi-bin/findweather/getForecast? query=Vietnam

Tôi xin bắt đầu với Sài Gòn theo ngày giờ Dương Lịch (tức ngày Tây) để mọi người tiện theo dõi.

SÀI GÒN: Mỗi Năm đều có giờ Chính Ngọ giống bảng lập thành như dưới đây

Tháng Một:

- Ngày 1-2, tháng 1, giờ Chính Ngọ là 11:56 phút. Tức là lúc 10:56 phút sáng đến 12:55 trưa là giờ Ngọ; 12:56-14:55 chiều là giờ Mùi; 14:56-16:55 chiều là giờ Thân; 16:56-18:55 phút chiều là giờ Dậu; 18:55-20:55 tối là giờ Tuất; 20:56-22:55 tối là giờ Hợi; 22:56-0:55 khuya là giờ Tí; 0:56-2:55 sáng là giờ Sửu; 2:56-4:55 sáng là giờ Dần; 4:56-6:55 sáng là giờ Mão; 6:56-8:55 sáng là giờ Thìn; 8:56-10:55 sáng là giờ Tỵ.
(Tất cả các ngày khác cứ theo cách tính giờ này đều có thể tính ra 12 giờ trong ngày).

- Ngày 3-4 tháng 1, giờ Chính Ngọ là 11:57 trưa
- Ngày 5-6 thì giờ Chính ngọ là 11:58 trưa
- Ngày 7-8 thì giờ Chính Ngọ là 11:59 trưa
- Ngày 9-11 thì giờ Chính Ngọ là 12:00 trưa
- Ngày 12-13 thì giờ Chính Ngọ là 12:01 trưa
- Ngày 14-16 thì giờ Chính ngọ là 12:02 trưa
- Ngày 17-19 thì giờ Chính Ngọ là 12:03 trưa
- Ngày 21-23 thì giờ Chính ngọ là 12:04 trưa
- Ngày 24-27 thì giờ Chính Ngọ là 12:05 trưa
- Ngày 28-31 thì giờ Chính Ngọ là 12:06 trưa

Tháng Hai:

- Ngày 1-2 thì giờ Chính Ngọ là 12:06 trưa. Tức giờ Ngọ bắt đầu từ 11:06-1:06 trưa
- gày 3-21 giờ Chính Ngọ là 12:07 trưa. Tức giờ Ngọ bắt đầu từ 11:07-1:7 trưa
- Ngày 22-28 thì giờ Chính Ngọ là 12:06 trưa

* Trường hợp gặp năm Nhuận thì ngày 29 cuối tháng giờ Chính Ngọ là 12:05 trưa.

Tuy nhiên, có sự khác biệt với những năm KHÔNG CÓ tháng 2 Nhuận. Nên chúng ta cần chú ý như sau:
- Ngày 22-27 thì giờ Chính Ngọ là 12 giờ:06 trưa
- Ngày 28 cuối tháng giờ Chính Ngọ là 12:05 trưa, thay vào chỗ ngày 29 của những năm Nhuận.

Ghi Chú: Mỗi 4 năm thì có một tháng 2 Nhuận, có ngày 29. Như năm 2004 thì tháng 2 Nhuận, có ngày 29, nên năm 1996, 2000, hoặc năm 2008 đều có tháng 2 Nhuận, có ngày 29.

Tháng Ba:

- Ngày 1-4 giờ Chính Ngọ là 12:05 trưa
- Ngày 5-8 giờ Chính Ngọ là 12:04 trưa
- Ngày 9-12 giờ Chính Ngọ là 12:03 trưa
- Ngày 13-15 giờ Chính Ngọ là 12:02 trưa
- Ngày 16-19 giờ Chính Ngọ là 12:01 trưa
- Ngày 20-22 giờ Chính Ngọ là 12:00 trưa
- Ngày 23-25 giờ Chính Ngọ là 11:59 trưa
- Ngày 26-29 giờ Chính Ngọ là 11:58 trưa
- Ngày 30-31 giờ Chính Ngọ là 11:57 trưa

Tháng Tư:

- Ngày 1-4 giờ Chính Ngọ là 11:56 trưa
- Ngày 5-8 giờ Chính Ngọ là 11:55 trưa
- Ngày 9-12 giờ Chính Ngọ là 11:54 trưa
- Ngày 13-16 giờ Chính Ngọ là 11:53 trưa
- Ngày 17-21 giờ Chính Ngọ là 11:52 trưa
- Ngày 22-26 giờ Chính Ngọ là 11:51 trưa
- Ngày 27-30 giờ Chính Ngọ là 11:50 trưa

Tháng Năm:

- Ngày 1-4 giờ Chính Ngọ là 11:50 trưa
- Ngày 5-22 giờ Chính Ngọ là 11:49 trưa
- Ngày 23-31 giờ Chính Ngọ là 11:50 trưa

Tháng Sáu:

- Ngày 1-6 giờ Chính Ngọ là 11:51 trưa
- Ngày 7-11 giờ Chính Ngọ là 11:52 trưa
- Ngày 12-15 giờ Chính Ngọ là 11:53 trưa
- Ngày 16-20 giờ Chính Ngọ là 11:54 trưa
- Ngày 21-25 giờ Chính Ngọ là 11:55 trưa
- Ngày 26-30 giờ Chính Ngọ là 11:56 trưa

Tháng Bảy:


- Ngày 1-5 giờ Chính Ngọ là 11:57 trưa
- Ngày 5-12 giờ Chính Ngọ là 11:58 trưa
- Ngày 13-31 giờ Chính Ngọ là 11:59 trưa

Tháng Tám:


- Ngày 1-7 giờ Chính Ngọ là 11:59 trưa
- Ngày 8-13 giờ Chính Ngọ là 11:58 trưa
- Ngày 14-18 giờ Chính Ngọ là 11:57 trưa
- Ngày 19-22 giờ Chính Ngọ là 11:56 trưa
- Ngày 23-26 giờ Chính Ngọ là 11:55 trưa
- Ngày 27-29 giờ Chính Ngọ là 11:54 trưa
- Ngày 30-31 giờ Chính Ngọ là 11:53 trưa
Tháng Chín:

- Ngày 1 giờ Chính Ngọ là 11:53 trưa
- Ngày 2-4 giờ Chính Ngọ là 11:52 trưa
- Ngày 5-7 giờ Chính Ngọ là 11:51 trưa
- Ngày 8-10 giờ Chính Ngọ là 11:50 trưa
- Ngày 11-13 giờ Chính Ngọ là 11:49 trưa
- Ngày 14-16 giờ Chính Ngọ là 11:48 trưa
- Ngày 17-19 giờ Chính Ngọ là 11:47 trưa
- Ngày 20-22 giờ Chính Ngọ là 11:46 trưa
- Ngày 23-24 giờ Chính Ngọ là 11:45 trưa
- Ngày 25-27 giờ Chính Ngọ là 11:44 trưa
- Ngày 28-30 giờ Chính Ngọ là 11:43 trưa

Tháng Mười

- Ngày 1-4 giờ Chính Ngọ là 11:42 trưa
- Ngày 5-7 giờ Chính Ngọ là 11:41 trưa
- Ngày 8-11 giờ Chính Ngọ là 11:40 trưa
- Ngày 12-15 giờ Chính Ngọ là 11:39 trưa
- Ngày 16-20 giờ Chính Ngọ là 11:38 trưa
- Ngày 21-28 giờ Chính Ngọ là 11:37 trưa
- Ngày 29-31 giờ Chính Ngọ là 11:36 trưa

Tháng Mười Một

- Ngày 1-7 giờ Chính Ngọ là 11:36 trưa
- Ngày 8-15 giờ Chính Ngọ là 11:37 trưa
- Ngày 16-20 giờ Chính Ngọ là 11:38 trưa
- Ngày 21-23 giờ Chính Ngọ là 11:39 trưa
- Ngày 24-27 giờ Chính Ngọ là 11:40 trưa
- Ngày 28-29 giờ Chính Ngọ là 11:41 trưa
- Ngày 30 giờ Chính Ngọ là 11:42 trưa

Tháng Mười Hai


- Ngày 1-2 giờ Chính Ngọ là 11:42 trưa
- Ngày 3-5 giờ Chính Ngọ là 11:43 trưa
- Ngày 6-7 giờ Chính Ngọ là 11:44 trưa
- Ngày 8-9 giờ Chính Ngọ là 11:45 trưa
- Ngày 10-11 giờ Chính Ngọ là 11:46 trưa
- Ngày 12-13 giờ Chính Ngọ là 11:47 trưa
- Ngày 14-15 giờ Chính Ngọ là 11:48 trưa
- Ngày 16-18 giờ Chính Ngọ là 11:49 trưa
- Ngày 19-20 giờ Chính Ngọ là 11:50 trưa
- Ngày 21-22 giờ Chính Ngọ là 11:51 trưa
- Ngày 23-24 giờ Chính Ngọ là 11:52 trưa
- Ngày 25-26 giờ Chính Ngọ là 11:53 trưa
- Ngày 27-28 giờ Chính Ngọ là 11:54 trưa
- Ngày 29-30 giờ Chính Ngọ là 11:55 trưa
- Ngày 30 giờ Chính Ngọ là 11:56

Sau đó thì quay trở lại từ đầu tức ngày 1 tháng 1 năm mới giống như năm trước.
 
Hà Nôi, Bắc Cần, Thanh Hóa, Vinh: Giờ ở Hà Nội, BC, TH, V trể hơn Sài Gòn 4 phút. Ví như ngày hôm nay: tháng 10 ngày 31; giờ Chính Ngọ ở Sài Gòn là 11:36 phút trưa, thì ở Hà Nội giờ Chính Ngọ là 11:40 phút trưa. Do đó, độc giả lấy bảng lập thành ở trên cho mỗi ngày của mỗi tháng, rồi cộng (+) thêm 4 phút vào thì sẽ có giờ Chính Ngọ cho Hà Nội, BC, TH, V.

Huế, Bạch Long Vĩ: Giờ ở Huế, BLV, sớm hơn Sài Gòn 4 phút. Ví như ngày hôm nay thì giờ Chính Ngọ của Huế là 11:32 phút trưa. Độc giả lấy bảng lập thành ở trên rồi trừ (-) đi 4 phút thì sẽ có giờ Chính Ngọ của Huế, BLV.

Ban Mê Thuộc, Phan Thiết, Pleiku: Giờ ở BMT, PT, PK sớm hơn Sài Gòn 5 phút. Độc giả lấy bảng lập thành ở trên rồi trừ (-) đi 5 phút thì sẽ có giờ Chính Ngọ của BMT, PT, PK.

Cà Mau: Giờ ở CM trể hơn Sài Gòn 6 phút. Độc giả lấy bảng lập thành ở trên rồi trừ (+) thêm 6 phút thì sẽ có giờ Chính Ngọ của

Ba Xuyên, Hà Tỉnh, Vĩnh Long: Giờ ở BX, HT, VL trể hơn Sài Gòn 3 phút. Độc giả lấy bảng lập thành ở trên rồi trừ (+) thêm 3 phút thì sẽ có giờ Chính Ngọ của BX, HT, VL.

Cao Bằng, Nam Định: Giờ ở CB trể hơn hơn Sài Gòn 2 phút. Độc giả lấy bảng lập thành ở trên rồi trừ (+) thêm 2 phút thì sẽ có giờ Chính Ngọ của CB, NĐ.

Côn Sơn: Giờ ở CS trể hơn Sài Gòn 1 phút. Độc giả lấy bảng lập thành ở trên rồi trừ (+) thêm 1 phút thì sẽ có giờ Chính Ngọ của CS.

Đà Nẵng: Giờ ở ĐN sớm hơn Sài Gòn 6 phút. Độc giả lấy bảng lập thành ở trên rồi trừ (-) đi 6 phút thì sẽ có giờ Chính Ngọ của ĐN.

Đồng Hới: Giờ ở ĐH trể hơn Sài Gòn 1 phút. Độc giả lấy bảng lập thành ở trên rồi trừ (+) thêm 1 phút thì sẽ có giờ Chính Ngọ của ĐH.

Hoàng Sa: Giờ ở Hoàng Sa sớm hơn Sài Gòn 19 phút. Độc giả lấy bảng lập thành ở trên rồi trừ (-) đi 19 phút thì sẽ có giờ Chính Ngọ của HS.

Lạng Sơn: Giờ ở LS và Sài Gòn giống nhau.

Lao Cai, Phú Quốc, Sơn La: Giờ ở LC, PQ, SL trể hơn Sài Gòn 11 phút. Độc giả lấy bảng lập thành ở trên rồi trừ (+) thêm 11 phút thì sẽ có giờ Chính Ngọ của LC, PQ, SL.

Nha Trang, Qui Nhơn, Tuy Hòa: Giờ ở NT, QN, TH sớm hơn Sài Gòn 10 phút. Độc giả lấy bảng lập thành ở trên rồi trừ (-) đi 10 phút thì sẽ có giờ Chính Ngọ của NT, QN, TH.

Rạch Giá (Kiêng Giang): Giờ ở RG (KG) trể hơn Sài Gòn 7 phút. Độc giả lấy bảng lập thành ở trên rồi trừ (+) thêm 7 phút thì sẽ có giờ Chính Ngọ của RG (KG).

Trường Sa: Giờ ở TS sớm hơn giờ ở Sài Gòn 21 phút. Độc giả lấy bảng lập thành ở trên rồi trừ (-) đi 21 phút thì sẽ có giờ Chính Ngọ của TS.
 
Tôi đã cố gắng tóm tắt cách tính giờ chính xác ở VN qua các thành phố lớn, nhưng không thể tính hết các thành phố nhỏ được. Các bạn chỉ cần tìm các thành phố không có tên ở gần các thành phố có tên ở trên mà gia giảm thêm bớt một vài phút. Vấn đề cần chú ý là những thành phố ven biển nằm về phía Đông đa số có cùng múi giờ với nhau, nếu nằm lệch về phía Tây thì sẽ chậm hơn 1-2 phút... vì mặt trời mọc phương Đông.

c. Cách xác định giờ qua các giai đoạn thay đổi

Đồng thời các bạn cần chú ý những giai đoạn thay đổi theo Pháp Định ở VN. Xin trích Sách Tử Vi Hàm Số của tác giả Nguyễn Phát Lộc:

CÁC GIAI ĐOẠN THAY ĐỔI GIỜ CHÍNH THỨC
VÀ PHÁP ĐỊNH Ở VIỆT NAM

1. Ngày áp dụng : 01 – 01 – 1943 ( 25 – 11 – Nhâm Ngọ)
Giờ chính thức và pháp định : Lên một tiếng trên giờ chính thức và pháp định .
Văn kiện pháp lý : Nghị định 23 – 12 – 1942 (JOIC trang 3749) áp dụng cho toàn cõi Đông Dương .

2. Ngày áp dụng : 01 – 04 – 1945 (19 – 02 – Ất Dậu )
Giờ chính thức và pháp định : Lên thêm một tiếng nữa ( theo giờ Nhật Bản)
Văn kiện pháp lý : Nghị định 29 – 03 – 1945 (JOIC trang 04) do Tsukamoto ký .

3. Ngày áp dụng : 01 – 04 – 1947 (12 – 03 – Đinh Hợi)
Giờ chính thức và pháp định : Giờ Greenwich cộng 08 tiếng
Văn kiện pháp lý : Nghị định 08 – 03 – 1947 (JOIC trang 591) do Walluy ký áp dụng toàn cõi Đông Dương .

4. Ngày áp dụng : 01 – 07 – 1955 (12 – 05 – Ất Mùi)
Giờ chính thức và pháp định : Giờ của thời đạo thứ 07, tức là lùi lại một tiếng so với giờ trước (1947)
Văn kiện pháp lý : Dụ số 46 ngày 25 – 06 – 1955 (CBVN trang 1781) áp dụng kể từ 01 giờ sáng đêm 30 – 06 rạng 01 – 07 – 1955 tại miền Nam vĩ tuyến 17 , Ngô Đình Diệm ký

5. Ngày áp dụng : 01 – 01 – 1960 (03 – 12 – Kỷ Hợi)
Giờ chính thức và pháp định : lên một tiếng trên giờ của thời đạo thứ 07 .
Văn kiện pháp lý : Sắc lệnh số 362/TTP ngày 30 – 12 – 1959 (CBVNCH trang 62) áp dụng từ 23 giờ đêm 31 – 12 – 1959 rạng ngày 01 – 01 – 1960 tại nam vĩ tuyến 17 .

Theo sự phân chia múi giờ trên thế giớ thì toàn thể Đông Dương nằm trong múi giờ thứ 07 (thời đạo thứ 07), múi giờ chuẩn là múi Greenwich số 0 . Theo sự thay đổi trên, giờ Tử Vi qua thời gian được tính như sau :

1. Từ 01 – 01 – 1943 trở về trước (25-11-Nhâm Ngọ trở về trước)
Sinh giờ nào tính theo giờ đó .

2. Từ 1-1-1943 (25 – 11 – Nhâm Ngọ) đến 31 – 3 – 1945 (18 – 2 – Ất Dậu)
Giờ Tử Vi là giờ sinh trừ đi 01 .

3. Từ 1 – 4 – 1945 (19 – 2 – Ất Dậu) đến 31 – 3 – 1947 (11 – 3– Đinh Hợi)
Giờ Tử Vi là giờ sinh trừ đi 02 .

4. Từ 1 – 4 – 1947 (12 – 3 – Đinh Hợi) đến 30 – 6 – 1955 (11 – 5 – Ất Mùi)
Giờ Tử Vi là giờ sinh trừ đi 01 .

5. Từ 1 – 7 – 1955 (12 – 5 – Ất Mùi) đến 31 – 12 – 1959 (2 – 12 – Kỷ Hợi) .
Sinh giờ nào tính theo giờ đó .

6. Từ 1–1–1960 (3–12–Kỷ Hợi) Đến 30–4–1975 (20 – 03 – Ất Mão) ( Áp dụng từ vĩ tuyến 17 trở vào)
Giờ Tử Vi là giờ sinh trừ đi 01 .

7. Từ 1 – 5 – 1975 (21 – 03 – Ất Mão) Sinh giờ nào tính theo giờ đó , cho cả hai miền Nam và Bắc. (hết trích)


Mặc dù thời nay chúng ta có vệ tinh nhân tạo để đo lường giờ Chính Ngọ ở VN khá chính xác, mà vấn nạn giờ giấc TV vẫn chưa phải là tuyệt đối chính xác. Vì sao? Vì không ai dám chắc chắn 100% giờ đồng hồ đeo tay hay treo tường (cho dù là trong nhà thương, nơi đứa bé sinh ra) là giờ chính xác. Ai dám chắc nó không không xê xích 1-2 phút?! Nhất là những trường hợp nằm ở giữa giờ trước và giờ sau, nếu sai lệch 1 phút thôi cũng sẽ có lá số hoàn toàn khác nhau. Trong những trường hợp này thì mọi người phải đành xem 2 lá số ở 2 giờ để kiểm chứng cho chắc chắn.

Để giải quyết vấn nạn này, chúng ta cần phải biết thêm những cách sau đây để khảo tra cho chắc:
 
Vài phương pháp áp dụng để xác định giờ sinh cho các trường hợp ngoại lệ.

1. DÙNG XOÁY ĐẦU:

Cách tính thứ nhất:
1. Sinh giờ tứ Chính: Tý, ngọ, Mão, Dậu thì ra ngữa, xoáy lệch bên trái. Dáng người tầm thước tính trực dễ nuôi.

2. Sinh giờ tứ Sinh: Dần, Thân, Tỵ, Hợi thì ra nghiêng, xoáy lệch bên phải. Dáng người thanh cao, trắng trẻo, xão quyệt, hay nói, dễ nuôi.

3. Sinh giờ tứ Mộ: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì ra sấp 2 xoáy. Dáng béo mập, đen, mắt sáng và gan gốc, nhưng khó nuôi.

Cách tính thứ hai:
1. Tí, Ngọ, Mão, Dậu: đỉnh cư trung (ở giữa).
2. Dần, Thân, Tỵ, Hợi: tả biên tòng (bên trái).
3. Thìn, Tuất, Sửu, Mùi: hà phương kiến, hữu biên chi vị thị chân tôn (bên phải).

Không hiểu tại sao hai cách tính nầy lại trái nghịch nhau?!

Cách này cá nhân tôi từ xưa đến nay chưa bao giờ dùng, tuy nhiên vẫn khuyến khích các bạn hãy tự chứng nghiệm xem sao.

2. KINH NGIỆM CỦA CỤ THIÊN LƯƠNG:

- Phải xem tính nết và liên hệ với đại gia đình (cha mẹ, anh em) và tiểu gia đình (chồng vợ). Nhưng quan trọng nhất là người đó mệnh đóng ở cung âm hay dương. Vì người ở cung Âm (tức là ở trong thế sinh xuất cho cung dương) tính tình phóng khoáng, rộng rãi và dễ dải; ngược lại người ở cung Dương được sinh nhập nên tính tình cẩn thận, chặt chẽ và thường khó tính (vì dương thì cương - trưởng, âm thì nhu - thứ). Những sao thêm vào chỉ là phụ thuộc thừa trừ mà thôi; cũng như thêm Địa Không, Địa kiếp chỉ là phần hình thức. Điển hình như sau:

NAM:
1. Dương nam sinh giờ dương (Tí, Dần, Thìn...) là trưởng

2. Âm nam sinh giờ dương (...Ngọ, Thân...), mệnh ở cung dương (là trưởng hình thức); nếu có Không-Kiếp (là thứ đoạt trưởng bao sân)

3. Âm nam sinh giờ dương (...Tuất) ở cung âm chia cho Không Kiếp (là thứ thế trưởng lo toan cho gia đình).
4. Âm nam sinh giờ âm (Sửu, Mão...) ở cung dương (làm con trưởng bất lực nhờ con thứ lo liệu)

5. Âm nam sinh giờ âm (...Tị, Mùi...) ở cung âm (là thứ nam lo toan cả gia đình).

Nữ:

1. Dương nữ sinh giờ dương ở cung dương (là trưởng nữ bao sân, hoặc thế trưởng)

2. Dương nữ sinh giờ dương là trưởng nữ trong một ngành.
3. Dương nữ sinh giờ âm ở cung âm là thứ nữ.
4. Âm nữ sinh giờ âm ở cung âm (là thứ nữ bao sân).
5. Âm nữ sinh giờ dương ở cung âm là thứ nữ.
6. Âm nữ sinh giờ dương ở cung dương là trưởng nữ.

Những trường hợp trên nếu Mệnh, Thân gặp Không, Kiếp thì cũng chỉ thay đổi miễn cưỡng.

Cách tính này của cụ TL, cá nhân tôi tìm thấy nhiều trường hợp không đúng, nên cũng chỉ tương đối mà thôi. Tuy tôi không xài cách này nhưng vẫn khuyến khích các bạn nên tự chứng nghiệm xem sao.

Tôi sẽ cố gắng viết lại cách định giờ riêng của tôi để các bạn tham khảo.
 
Sau đây là vài cách tôi áp dụng, xin viết lại để các bạn tham khảo.

CĂN CỨ VÀO THỨ BẬC TRONG GIA ĐÌNH

1. Thiên Khôi: Tọa Mệnh, hay Tam hợp chiếu, bất kể sao gì thủ, vẫn làm trưởng

a. Nếu Mệnh gặp Không Kiếp và cung Huynh Đệ có Tuần Triệt là người đoạt trưởng lo toan cho gia đình, hoặc có quyền có tiếng nói trong gia đình

b. Nếu Mệnh gặp Không Kiếp làm trưởng thì thường chẳng lo gì được cho gia đình

c. Trường hợp cung Huynh Đệ có Nhật Nguyệt một thủ một chiếu, hoặc một trực xung một chiếu thì trên có anh chị đủ cả, nhưng bản thân vẫn lo lắng cho gia đình

2. Mệnh có Tử Vi:

a. Mệnh ở Thìn Tuất có Tử Vi tọa thủ hoặc trực xung, cung Huynh không có Nhật Nguyệt trực xung, thì làm trưởng. Trường hợp gặp Không Kiếp không lo gì được cho gia đinh.

b. Mệnh ở Tí Ngọ có Tử Vi tọa thủ hoặc trực xung, cung Huynh có Thái Âm Thái Dương hoặc Âm Dương trực xung thì trên có anh hoặc chị, nhưng vẫn lo toan cho gia đình

3. Mệnh có Tử Vi và Thiên Khôi thủ hay trực xung thì làm trưởng, dù cung Huynh Đệ có Nhật Nguyệt thủ hay trực xung cũng nhất định làm trưởng (nhiều trường hợp vì do anh chị ở trên mất)

4. Thiên Việt: Tọa Mệnh, hay trực xung, bất kể sao gì thủ, nếu làm trưởng là con một hoặc trên có chị dưới mình không có em; không thì sẽ là em thứ hoặc em út.

5. Trường hợp Mệnh ở Tí Ngọ, Sửu Mùi mà giáp hợp Khôi Việt vẫn xem như Khôi Việt tại Mệnh. Trường hợp Khôi Việt ở những cung khác, có giáp thì không có hợp, có hợp thì không giáp, lực không mạnh nên không tính.


Tôi tạm tóm tắt như thế, không biết còn thiếu điểm nào chăng, mong các bạn đọc nếu có chỗ nào thắc mắc xin nói tôi sẽ bổ túc thêm. Xin các bạn hãy đem hết những người trong gia đình, hoặc những người mình biết áp dụng thử để tự chứng nghiệm nhé, và nếu thấy điểm nào sai thì xin làm ơn cho biết để tôi kiểm chứng lại.

Tiếc quá, tôi viết về phần tính chất sao thủ Mệnh đã gần xong, không hiểu vì lý do gì, internet lại close, mất hết bây giờ phải viết lại, các bạn ráng chờ thêm tí nhé.
 
CĂN CỨ VÀO TÍNH CHẤT SAO:

Căn cứ vào tính chất các sao thủ, chiếu mệnh để xem tướng cách và đặc điểm ngõ hầu dễ xác định giờ sinh hơn.

Theo kinh nghiệm cá nhân, có thể phân loại như sau:

1. Tử, Phủ, Vũ, Tướng: Là loại người đa số nắm quyền sinh sát nếu đủ Khoa Quyền Lộc, Xương Khúc, Tả Hữu, Tứ Linh..., thường thì phúc hậu, đường bệ, uy nghi nếu sao đắc địa thủ hợp Mệnh, Thân.

a. Tử Vi: Đa số phúc hậu, tính tình cẩn trọng, tướng người vừa tầm, cân đối, da thường hơi ngâm hoặc vàng không trắng, không cao, không thuộc loại đẹp trai, nếu ở Dần Thân. Ngoại trừ người có Mệnh ở Tí, Ngọ không gặp Tuần Triệt thì tướng cao, nhưng cũng không đẹp vì thường mặt mụn hoặc sần sùi. Người gặp Tuần Triệt tại Mệnh ở Tí Ngọ thì da trắng, thanh tú, không mụn hay sần sùi, nhưng không cao. Trường hợp người gặp Tử Vi có Không Kiếp thì lại đẹp trai, nhưng Tử Vi gặp Không Kiếp là đế ngộ hung đồ, thường làm đàn anh đi trộm cướp.

- Tử Sát ở Tỵ Hợi nhờ có Thất Sát nên da trắng, trai gái đều đẹp, và mặt thường không bị mụn hay sần sùi, vì Tử Vi ở Tỵ được Thất Sát Kim tiết khí Thổ và Thiên Đồng ở Tí đắc địa nên Thổ không đến nổi khô táo tạo thành mụn nhọt. Ở Hợi thì Tử Vi vừa được Thất Sát Kim và cung Hợi Thuỷ tưới nhuận, nên Thiên Đồng ở Ngọ hãm mà không bị mụn nhọt.

- Tử Phá ở Sửu Mùi nhờ có Phá Quân Thuỷ nên trai gái đều đẹp, da hơi trắng, và mặt không mụn, nhưng tính hơi nóng nảy và dữ.

- Tử Tham Mão Dậu thì hơi dư bề ngang và hơi thiếu bề cao. Nói chung không cao và hơi mập, nhưng da không trắng, và mặt mày không mụn hoặc sần sùi, do nhờ Tham Lang mộc khắc bớt chất Thổ của Tử Vi.

- Tử Tướng Thìn Tuất cũng thấy không mụn, vì nhờ Thuỷ của Thiên Tướng. Nhưng ở đây phái nam thường đẹp trai hơn phái nữ.

Chú Ý: Đừng ngạc nhiên khi người có Tử Vi đắc địa hợp Mệnh mà “da mặt lại sần sùi hay mụn” đó là vì Thổ quá vượng và cung Tật Ách của họ có Thiên Đồng không đắc địa hoặc hãm. Nếu Tử-Vi thủ Mệnh thì Thiên Đồng bao giờ cũng ở cung Tật Ách, còn Tử-Phủ thủ Mệnh thì Tật Ách là Đồng-Cự. Cả hai trường hợp thường làm cho đương số hô, mặt mụn hay sần sùi nếu không có Tuần Triệt. Duy, người bị Tuần-Triệt tại Mệnh thì mặt lại không mụn! Nói chung những người Mệnh Kim, Hỏa, và Thổ, mà gặp phải Tử Vi ở các cung như Tí, Ngọ, Dần Thân thì rất dễ bị mụn, nếu cung Tật hay Mệnh không có Tuần Triệt.

b. Thiên Phủ: thường thì tướng người đậm, hơi có thịt, đầy đặn, trắng trẻo, thường cao lớn, hay dong dảy, mặt mày có nét hiền lành phúc hậu. Tính khí ôn lương, nhẹ nhàng hơn Tử Vi, nhưng mạnh dạn hơn CNDL. Gặp Tử Vi ở Dần Thân khó tránh bị mụn, nếu không có những cách như đã nói ở sao Tử Vi. Gặp các sao khác như Liêm Phủ, Thìn Tuất, Vũ Phủ, Tí Ngọ, vẫn đẹp đẻ, phương phi.

c. Vũ Khúc: thường tướng nhỏ con, không cao, nhưng nét cứng chắc, mặt hơi xương, nhiều nốt ruồi, tính quả quyết, hơi khó tính, hơi kiêu kỳ, mà cô độc.

d. Thiên Tướng: thường tướng cao lớn, tính nóng, có tâm Đạo, có khiếu làm thầy tu, bói toán, nhà văn, bác sĩ... nếu có Quang Quý, hay Quan Phúc. Riêng đóng ở Mão Dậu thì tướng người dong dãy vừa tầm, không mập không ốm, da hơi ngâm một chút. Còn ở Sửu Mùi thì tướng khá cao lớn.

2. Sát, Phá, Liêm, Tham: Tướng người cứng chắc, ngang tàng khí phách, gan gốc. Nếu thêm Địa Không, Địa Kiếp nữa thì họ chẳng nễ vì ai cả.

a. Thất Sát: tướng oai, tính cương, đôi khi nông nổi vì bốc đồng.Con gái có Thất Sát thường lưỡng quyền cao (gò má cao), mặt thường hơi xương.

1. Thất Sát Tí Ngọ: đắc địa da trắng, có tướng thư sinh, cạnh hàm hơi bén (mặt hơi xương lưỡng quyền hơi lộ), tướng oai, tính cương, đôi khi nông nổi vì bốc đồng. Mới nhìn hơi giống Thiên Lương, Nhật, Nguyệt, nhưng cứng chắc hơn.

2. Thất Sát Dần Thân: Tướng khá cao lớn, da hơi ngâm, không trắng, tướng bệ vệ, tính khá nóng gấp, đàn bà cũng khá dữ.

3. Vũ Sát Mão Dậu: Người không cao, xương hơi to, da hơi ngâm hoặc vàng không trắng, thường hay bị bệnh thần kinh hoặc tinh thần hơi yếu. Tính nóng gấp, gan gốc, lỳ lợm, cho dù là phái nữ cũng hơi dữ.

4. Liêm Sát Sửu Mùi: Tướng người dong dảy khá cao, da thường trắng, mặt hơi dài, tính thẳng thắn mạnh dạn.

b. Phá Quân: đắc địa da trắng nhuận, nếu hãm trắng bạch, tướng người vừa tầm, má hơi hóp mặt hơi xương, cạnh hàm hơi bén, có nét đàn anh, nghiêm nghị.

- Liêm Phá Mão Dậu tương đối cao, mặt mày đầy đặn. Ở đây thì đương số thường nói năng hơi phóng đại một tí, và hay dùng những danh từ binh lửa, hay đao to búa lớn... hoặc giống y như đang ra trận. Ví dụ: "Hắn định tung một chưởng Tử Vi với tôi, liền bị tôi oanh tạc cho tắt bếp". Nghe người Liêm Phá nói chuyện thì thật là thú vị.

c. Liêm Trinh: tướng người hơi ốm nhưng cứng chắc, mặt hơi dài, trán có nhiều nếp nhăn, mắt hơi lội, lông mày rậm, tính khí thích tranh đấu, nóng nảy, can đảm, dũng mãnh, trung trực, liêm khiết, thẳng thắn. Nữ phái gặp Liêm Trinh thì thanh khiết, đoan chính, mà vẫn nóng.

d. Tham Lang: Mặt hơi tròn, tướng người hơi mập thịt nhưng cứng chắc và mạnh dạn, lông tóc nhiều, hoặc râu quai nón (gặp Hóa Lộc hay Riêu Y càng chắc), lòng tham dục và tình dục rất mạnh. Tham Lang luôn nhị hợp với Thiên Đồn, nên ăn vào Thiên Đồng thì hơi mập, nhưng tướng mềm, không nóng nảy và mạnh dạn như ăn vào Tham Lang. Người Tham Lang thường dễ ra mồ hôi và hơi nặng mùi.

3. Cự, Nhật: Thuộc loại công chức như Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương, nhưng ăn nói rất đanh thép.

a. Thái Dương: Nếu sáng sủa thì tướng người dong dãy, có cặp mắt to hoặc đen láy mơ huyền rất đẹp hoặc làm nổi bậc nhất trong khuôn mặt, mặt mày sáng sủa, khôi ngô tuấn tú, thông minh đỉnh ngộ, tính tình hiền lành, nhưng hoạt bát hành động nhanh nhẹn, hơi tự hào; hãm địa thì mặt mày vẫn vậy nhưng da hơi ngâm, tính tình trầm tỉnh hành động chậm rãi, giọng nói hơi nhỏ nhẹ, không mạnh dạn, kém thông minh. Ở Thân Dậu, Tuất Hợi, Tí Sửu, gặp Tuần Triệt là hay nhất. Nếu hãm địa ở những nơi khác gặp Tuần, Triệt là người có trí nhớ rất dai, nhưng lại khi thông minh khi tối tăm. Thái Dương hợp với nam, nên dù hãm địa ở Tuất Hợi Tý vẫn là một người rất đẹp trai; nhưng ngược lại đối với phái nữ thì không thuộc loại đẹp gái.

b. Cự Môn: thường da trắng, có mũi lân, mặt hay mũi thường có mụn hay sần sùi, miệng thường hô, trừ khi gặp Tuần Triệt, hay thân đóng ở nơi khác. Tướng người thường mềm mại, nhưng ăn nói đanh thép nếu đắc địa, hãm địa thì thích thị phi, hay lý tài, biện luận. Cự Môn hãm gặp Tuần Triệt thì mặt mày trắng trẻo, và mũi hay mặt không mụn hay sần sùi.
   
4. Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương: Dáng người mềm mại (dù là mập) và tướng thường thanh thanh (tức là thuộc loại bạch diện thư sinh).

a. Thiên Cơ: Nét mặt hiền lành, đạo đức, trai thì thư sinh, gái thì nhu mì nết na, là người nhân hậu, chí thiện. Tướng người mềm mại, da dẻ khá trắng, gò má hơi lộ hoặc má hơi hóp.

- Cơ-Lương: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thường mặt chữ điên (vuông) da trắng, mũi cao, mặt đẹp, tướng cao, nói chung là trang mỹ tử. Tính tình thanh cao, hiền lương, ngay thẳng, đạo đức.

b. Thiên Lương: mặt thanh tú, da trắng, và có cái cằm vuông

c. Thái Âm: Nếu sáng sủa thì da trắng, mặt mày đẹp đẽ, thanh tú, thông minh sáng suốt, cặp mắt to đẹp, hoặc đen láy hay mơ huyền hoặc làm nổi bậc nhất trong khuôn mặt, phái nữ gặp thì rất hợp. Phái nam gặp thì đẹp trai nhưng tính giống như “mụ”, nhất là miệng khi nói chyện hay điệu hoặc sửa nét, mặc dù đây là tính tự nhiên; nói chung có vài tính giống nữ. Nếu hãm địa tính tình trầm tỉnh hành động chậm rãi, kém thông minh, da hơi ngâm; nếu đắc địa cực kỳ thông minh, tính tình khoáng đạt hành động nhanh nhẹn, hơi tự hào. Thái Âm hãm địa hay đắc địa gặp Tuần Triệt cách luận cũng giống như Thái Dương. Nữ phái gặp Thái Âm hãm gặp Tuần Triệt, hoặc đắc địa thì đó là một người đàn bà tuyệt vời, vì nết na thuỳ mị, đoan trang, công dung ngôn hạnh đủ đầy. Thái Âm từ Mão đến Tỵ, nếu không có Tuần Triệt thì giọng nói yếu ớt vì thiếu khí lực, da hơi xanh, sức khỏe yếu kém, người thường mảnh khảnh ốm yếu.

d. Thiên Đồng: tướng thường thấp và hơi mập (nếu mập thì nhiều phúc, thường giàu có, khá giả), đặc biệt đùi và mông to (xương chậu rất to, thường trên thon nhỏ dưới bự từ mông và đùi, gặp trường hợp này đi giống y như con vịt), nếu hãm địa da đen. Mặt mày và tính tình phúc hậu, nhưng tính hay thay đổi bất thường (vì tính như con nít, chữ Đồng) như trẻ con, ưa động. Mặt và tính trẻ hơn so với tuổi. Nếu ở Mão Dậu gặp Tuần Triệt người lại mình dây, tướng dong dãy, nhưng xương chậu mông và đùi vẫn to hơn những nơi khác. Tóm lại gặp người có Thiên Đồng chỉ cần chú ý mông và đùi là biết ngay.

- Cự-Đồng: ở Sửu Mùi, tướng người hơi thấp và hay phì nộn, mông to, da đen, mặt hay mũi thường mụn, miệng hô. Nếu gặp Tuần Triệt thì da trắng, người vừa tầm, nếu là gái thì lại đẹp, hô giả, quý tướng.

Theo kinh nghiệm cho thấy: không phải lúc nào tướng người cũng giống như sao thủ Mệnh, nhưng nếu giống thì mới được hưởng những cách tốt, hoặc mới bị những cách xấu của sao ấy, (tuy nhiên tính chất của Sao thủ Mệnh thì vẫn không thay đổi mấy). Trường hợp tướng người không giống Sao thủ Mệnh, thì phải xem giống Sao nào trong tam hợp, nhị hợp, hay xung chiếu, rồi mới tính cách tốt xấu của Sao đó. Hơn nữa, trong thực tế thì tướng người cao thấp, da dẻ đen trắng, còn tuỳ thuộc vào gene duy truyền của cha mẹ, và sự phát triển ăn uống lúc nhỏ. Đây chỉ là những nét đại cương, không thể nào hoàn toàn chính xác bất di bất dịch được!

Điểm tôi mong mỏi các bạn tập là, làm thế nào trước khi các bạn lập lá số cho một người hãy tập quy tạng người của họ xem thuộc loại TPVT, SPLT, CNDL, hay CN...,. Sau khi tập hoài thành thói quen, và xác suất lên được 60-70% thì tiếp theo đó, các bạn hãy xem nét mặt và tướng người cho thật kỹ rồi tự đặt sao chính tinh, cũng như một số bàng tinh vào cung Mệnh xem có thể đúng được bao nhiêu phần trăm. Tôi tin rằng nếu các bạn cứ tập như vậy một thời gian các bạn sẽ ngạc nhiên, với sự chính xác mà các bạn có thể làm. Ngày trước khi tôi xem số ai đều đặt sao trước khi xem số, hoặc khi gặp một người có nét hay tướng lạ, hoặc có cách ăn nói, hay cữ chỉ lạ, tôi đều tìm đủ mọi cách để xin cho được lá số về nhà nghiên cứu. Tất cả những gì viết ở trên là do tôi ráng nhớ lại những kinh nghiệm tôi đã xài cách đây 6 năm trước, tiếc là vì hơn 6 năm nay tôi hiếm khi xem Tử Vi mặt đối mặt như ngày xưa, cho nên không nhớ hết và không thể nào đầy đủ được vì đã quên dần theo thời gian. Tôi sẽ tiếp tục cố nhớ lại và nghiên cứu thêm, đồng thời cũng mong các bạn có những tướng cách hay, chia xẻ để chúng ta cùng học hỏi. Đối với tôi đây là một vấn đề lý thú nhất.

Monday, May 28, 2012

Phân loại tinh hệ theo nhóm bệnh - Trung Chau

Về nguyên tắc luận đoán, vẫn cần chú ý tính chất của cung Tật Ách. Ví dụ như Tham Lang có kèm sát tinh ở cung Tật Ách, tính chất có thể là bệnh gan, cũng có thể là bệnh thận. Đến Đại hạn, cung hạn Tật Ách gặp Liêm trinh - Thiên tướng, mà Thiên tướng bị cách "Hình Kị giáp ấn", đây là điềm tượng chủ về bệnh Thận hoặc bệnh về tính dục. Do Tham Lang ở nguyên cục có tính chất chủ về bệnh thận, nên đến Đại hạn này chủ về ứng nghiệm. Các tinh hệ dưới đây, thông thường đều phải gặp các Sát - Kị - Hình - Hao mới đúng, và xem các sao hội hợp cát hung nhiều ít mà định bệnh tình.

Sau đó tra các Lưu niên trong Đại hạn này, sẽ tìm ra Năm phát bệnh. Nguyên tắc luận đoán này, mới nghe thật đơn giản, nhưng nhiều Danh gia Đẩu số còn không biết. Bạn đọc có thể dựa vào nguyên tắc này để thực tập, kinh nghiệm ngày càng phong phú, ắt sẽ có thành tựu.
Nhóm 1: Bệnh hệ thần kinh


Các tổ hợp sao chủ yếu là Thiên cơ, Thái âm, Thiên đồng. Cũng có thể nói tổ hợp cách "Cơ Nguyệt Đồng Lương" rất dễ bị bệnh liên quan đến hệ thần kinh, như suy nhược thần kinh, tâm thần, thiểu năng chí tuệ, .v.v...

Nhiều lúc bệnh mang tính suy nhược thần kinh có liên quan đến "Thiên đồng - Cự môn". Nếu "Tử Vi - Tham lang" thủ cung Tật Ách gặp sao Đao hoa quá nặng, thì lúc đến hạn "Cơ Nguyệt Đồng Lương" thủ cung Tật Ách, thường dễ mắc chứng bệnh này, biểu hiện là dương nuy, di tinh, xuất tinh sớm. Ở đây không cần xem Cự Môn.

Người bị bệnh tâm thần, chủ yếu xem Thiên cơ, đông y gọi là Can phong.

Nếu "Thiên cơ - Thái âm" đồng cung với Hỏa Đà, còn gặp thêm Địa Không, Địa Kiếp, là rối loạn Tâm thần kinh (hysteria), thường có biểu hiện kích động, cử chỉ thất thường. Nhưng cần phải hội Thiên Lương và có Thái Dương không có nhập miếu tương chiếu, mới ứng nghiệm.

Bệnh viêm não Nhật bản-B, cũng có liên quan với tinh hệ "Cơ Nguyệt Đồng Lương", năm phát bệnh là cung hạn Tật Ách Thiên Lương lạc hãm, hội chiếu Hỏa tinh, Linh tinh. Phỉ liêm, Âm sát. Nhóm tinh hệ này khác với nhóm tinh hệ chủ về bệnh Hysteria nên cẩn thận phân biệt.

Tinh hệ chủ về viêm màng mão đại khái tương tự với tinh hệ chủ về chủ về viêm mang não Nhật bản - B, chỉ khác nhau một điều, là Thái Dương nhập miếu, nếu Thái dương lạc hãm, phần nhiều là viêm não Nhật Bản-B, thời gian ứng nghiệm thường là lúc hạn Tật Ách là Thất Sát hoặc Phá Quân. Thất sát thường chủ về chứng viêm, Phá quân chủ về chứng viêm cấp tính.

Chứng miệng méo, miệng chảy nước dãi (không phải do trúng phong), thì xem các tinh hệ chủ về bệnh chủ ở tạng Thận. Có lúc cung Tật Ách ở nguyên cục là Tham lang, niên hạn ứng nghiệm là lúc cung hạn Tật Ách "Thiên cơ - Thái Âm", cũng có lúc ngược lại, nguyên cục là "Thiên cơ Thái âm", thời kỳ ứng nghiệm là hạn Tham lang. Đây là một ví dụ. Hai chứng này đều gặp nhiều Tạp diệu như Thiên hư, Thiên sứ, Thiên diêu, thì phải lưu ý.
Trong số các bệnh hệ thần kinh, có bệnh "rỗng tủy sống" (syringomyelia), xem hệ "Thiên đồng - Cự môn" và hệ "Thất sát - Phá quân". Người bệnh thường cảm thấy chân tê, không có cảm giác, nếu nghiêm trọng các ngón tay ngón chân có thể bị co quắp, hoặc tê liệt phần mặt. Cổ nhân cho rằng Thất sát, Phá quân là sao chủ về tổn thương, tàn tật, nguyên nhân có liên quan đến chứng bệnh này.

Ngoài ra còn có bệnh múa tay múa chân (ST. Vitu's dance), người bệnh không thể kiểm soát hoạt động của chân tay, thường có một số động tác nhanh không tự chủ, có lúc thì mắt máy giật, nhíu may, lè lưỡi, bệnh tình tuy không đau, nhưng rất phiền phức. Tinh hệ chủ về chứng này là Tham lang đồng cung với Địa không, Địa kiếp, lại gặp thêm Kình dương, Thiên sứ, có lúc là Thiên đồng hóa Kị đồng cung với Hỏa linh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp, cũng chủ về chứng này, nhưng cung Tật Ách của nguyên cục phải là Kình dương ở cung Ngọ, cũng là một nhân tố quan trọng chủ về chứng này.

Đau dây thần kinh tam thoa, tinh hệ chủ yếu là "Thái Dương - Thiên Lương", có Hỏa Linh hội chiếu hoặc đồng độ, lại gặp thêm Thiên thương, còn có Thiên tướng bị cách "Hình Kị giáp ấn" hội chiếu cung mệnh, đều chủ về chứng bệnh này.

Tinh hệ chủ về liệt thần kinh mặt, và tinh hệ chủ về đau dây thần kinh tam thoa rất khó phân biệt. Điều cần chú ý là, Kình dương phần nhiều chủ về tê liệt thần kinh mặt, tinh hệ ứng nghiệm phát bệnh phần nhiều là Thiên Cơ, còn đau dây thần kinh tam thoa thì không phải vậy.

Bệnh thiên đầu thống mang tính thần kinh, thì xem tinh hệ "Thiên đồng - Thiên lương", tạp diệu hội hợp phần nhiều có Thiên nguyệt, Thiên hình. Có lúc là "Thiên cơ - Cự môn" đồng cung với Hỏa tinh cũng chủ về bệnh xuất huyết não, khác với bệnh thần kinh đơn thuần, phân biệt chủ yếu là tinh hệ "Thiên cơ - Cự môn" có biểu hiện choáng ngất.

Nếu tinh hệ "Thiên cơ - Cự môn" mà Thiên cơ hóa Kị, còn gặp thêm Thiên hư, thì càng ứng nghiệm.

Bàn tay chân run mang tính thần kinh, thì xem tinh hệ "Thiên đồng - Cự môn", cũng có quan hệ với Đà la và Cô thần.

Bệnh tay chân run do trúng độc, thì xem tinh hệ "Thái dương - Thiên lương", có Thiên nguyệt cùng bay đến tì càng đúng. Do trúng độc cũng có thể gây ra chứng tắc ruột, thời kỳ ứng nghiệm phải xem cung hạn Cự Môn

Viêm da mang tính thần kinh là tinh hệ "Liêm trinh - Thiên tướng", thời kỳ ứng nghiệm ắt cung hạn phải gặp Thiên cơ, Thiên Đồng. 
Nhóm 2: Bệnh hệ tiêu hóa

Cơ quan thuộc hệ tiêu hóa, bao gồm Trường (ruột), Vị (dại dày), Can (gan), Đảm (mật). Theo chứng nghiệm của Vương Đình Chi, có thể phân chia như sau:

Vị hàn, thòng dạ dày (sa bao tử), thì xem Thiên phủ thuộc loại "kho lộ", "kho rỗng", hoặc Tử vi là cách "tại dã cô quân", nhưng không được có Hỏa tinh đồng độ mới đúng, có Hỏa tinh thì nhuyễn hóa thành chứng viêm.

Nếu tinh hệ "Tử vi - Thiên tướng" thủ cung Tật Ách, thì thường là Vị hàn, buồn nôn, hoặc tiêu chảy thuộc chứng Hàn, Thiên phủ đồng cung với Hữu bật, phần nhiều là sa bao tử.

Chứng vị hàn cũng có thể là chứng dạ dày dư acid, các sao ứng nghiệm là Thiên phủ gặp Thiên lương, Phá toái, Âm sát, gặp Liêm trinh hóa Kị thì bệnh rất nghiêm trọng, có thể phát triển thành chứng đay dạ dày, thần kinh dạ dày quá mẫn cảm.

Nếu là viêm dạ dày, thì xem Thiên cơ hoặc Cự môn. Thiên cơ thì chủ về bệnh mãn tính, thường còn chủ về đau Gan. Cự môn đồng cung với Hỏa linh thì chủ về viêm dạ dày cấp tính, hay viêm đại tràng cấp tính. Nếu tinh hệ "Thiên cơ - Cự môn" đồng độ, nguy cơ bị viêm dạ dày hay viêm đại tràng rất lớn. Có sao Lộc thì giảm nhẹ, không có sao Lộc mà còn hóa Kị thì càng nặng thêm. Nhưng nếu có Lộc thì thường chủ về bệnh Trường Vị bất hòa, mức độ nhẹ thì viêm dạ dày cấp tính. Bệnh viêm ruột thừa cấp tính thì xem Thiên lương gặp Kình dương, hay Thất sát gặp Kình dương, hoặc Phá quân gặp Kình dương. Trường hợp Phá quân gặp Kình dương cũng chủ về viêm ruột kết, viêm đại tràng cấp tính
"Thiên đồng - Thiên lương" đồng độ, cũng chủ về bệnh dạ dày, phần nhiều thuộc chứng hàn. Nếu có Thiên mã đồng độ, lại gặp thêm Hỏa tinh, Linh tinh, thì phần nhiều là rối loạn tiêu hóa, hoặc tiến triển thành tiêu chảy.

Tử vi cũng chủ về tiêu chảy, nhưng khác tính chất. Tiêu chảy của Tử vi thông thường là hấp thụ không tốt, còn tiêu chảy của tinh hệ "Thiên đồng - Thiên lương" là không tiêu hóa được.

Xơ gan thì xem Thiên cơ, cũng xem Thất sát ở hai cung Dần và Thân, nhưng trường hợp sau phần nhiều là viêm gan siêu vi.

Hễ Thiên cơ đồng cung với Phỉ Liêm, gặp các sao Sát - Kị, còn lại gặp thêm các sao Hư, Hư hao, Hao, Thiên nguyệt, phần nhiều chủ về gan nhiễm ấu trùng (Clonorchiasis) dẫn đến sơ hóa.

Nếu sơ gan do ống mật tắc nghẽn gây ra, thì xem Thiên tướng, có Đà la đồng độ thì càng đúng.

Ống mật tắc nghẽn thường do sỏi mật gây ra, tinh hệ ứng nghiệm là "Liêm trinh - Thiên tướng" đối nhau với Phá quân có sát tinh đồng độ.

Giun chui ống mật (gây nên sỏi mật), ngoại trừ Thiên tướng, Đà la, còn phải xem Phỉ liêm. Hễ bệnh liên quan đến ấu trùng, giun, đều phải xem Phỉ Liêm và Thiên Nguyệt.

Có lúc Cự môn cũng chủ về bệnh túi mật, thì vẫn lấy cung hạn Thiên tướng làm thời kỳ ứng nghiệm, nhất là tinh hệ "Liêm trinh - Thiên tướng" thì càng đúng.

Bệnh ở hậu môn chủ yếu xem Thiên đồng, phối với tạp diệu thì xem Âm sát, Long đức, Phá toái.

Trúng độc đường tiêu hóa khác với trúng độc mang tính thần kinh. Trường hợp sau có thể ví dụ là sử dụng ma túy, trường hợp trước chỉ là ăn uống trúng độc. Cung Tật Ách gặp Thiên tướng bị cách "Hình Kị giáp ấn", Thiên phủ lại không gặp sao Lộc, hoặc gặp sao Lộc mà đồng thời gặp Kình Đà, thì đều phải chú ý vấn đề ẩm thực. Nếu lại gặp Liêm trinh hóa Kị, thì càng phải đề phòng độc tố thức ăn nhiễm vào máu.
 
Nhóm 3: Bệnh hệ tuần hoàn

Nhóm bệnh này chủ yếu là bệnh tim mạch, huyết áp, phần nhiều xem Thái dương, kế đến là Thiên tướng.

Nhưng bệnh hệ tuần hoàn có khi do bệnh hệ thần kinh gây ra, Đông y gọi là "Tâm Thận bất giao", hoặc suy nhược thần kinh, có thể dẫn đến tâm thần phân liệt, nhịp tim rối loạn, các chứng bệnh này lại không liên quan đến Thái dương hoặc Thiên tướng, bạn đọc có thể tham khảo ở mục đã thuật ở trước.

Thái dương ở cung vượng, lại gặp Quyền - Lộc, cũng có thể chủ về huyết áp cao, không nhất định phải gặp sát tinh mới đúng.

Thái dương hóa Kị, hoặc Thái dương có Tứ sát tinh giao hội, cũng là điềm tượng huyết áp cao. Nếu là tổ hợp "Thái dương - Cự môn" thì càng đúng.

Tổ hợp "Thái dương - Thiên lương" cũng chủ về trúng phong, bại liệt, vì Thiên lương có tính chất bệnh kinh niên. Tinh hệ này cũng thường gặp các sao Thiên Nguyệt, Thiên Hình hội hợp.

Thiên tướng chủ về Thận, cho nên lúc Thiên tướng bị cách "Hình Kị giáp ấn", hoặc có các sao hung sát trùng trùng giao hội, cũng chủ về huyết áp cao, cũng có thể là đau tim. Nếu cung Tật Ách của nguyên cục, có khuynh hướng chủ về bệnh hệ thần kinh, lúc đến niên hạn Thái Dương thủ cung Tật Ách, cũng dễ bị chứng huyết áp cao.

Còn chứng huyết áp thấp có liên quan đến hệ nội tiết, cũng xem tinh hệ "Thái dương - Thiên lương", nhưng thường có Địa không, Địa kiếp hội hợp. Một tinh hệ quan trọng khác là "Thái dương - Thái âm", hễ có chứng trạng âm dương bất hòa, thì cũng là rối loạn nội tiết.

Cự môn đồng độ với Đà la, hội Thái dương có sát tinh, có lúc chủ về đau thắt ngực (angina pectoris), xơ vữa động mạch; nhưng cũng có thể là bán thân bất toại, tức trúng phong (tai biến mạch máu não)

Tinh hệ "Thiên đồng - Thiên lương" cũng chủ về đau thắt ngực, nếu hội các sao Hình - Kị, thì chủ về tắc nghẽn cơ tim, tắc nghẽn mạch máu.

Bệnh hệ tuần hoàn cũng bao gồm các chứng thiếu máu, tăng bạch cầu, các chứng này thì xem Liêm Trinh, nếu Liêm trinh hóa Kị, có các sao ác sát tụ hội, thì chứng bệnh càng nghiêm trọng.

Nếu do trúng độc gây ra thiếu máu, thì vẫn xem Thiên Lương, hoặc xem tinh hệ "Thái dương - Thái âm".

Thiếu tiểu cầu da có thể bị bầm tím, chứng bệnh này lấy Thiên đồng hóa Kị làm điềm tượng. Có lúc Thái dương hóa Kị ở nguyên cục có Âm Sát đồng độ, niên hạn ứng nghiệm là lúc đến cung tật ách Thiên đồng hóa Kị gặp các sao Sát - Hình; hoặc Thiên đồng của nguyên cục hóa Kị, niên hạn ứng nghiệm là lúc đến cung hạn tật ách Liêm Trinh đồng cung với Âm Sát. Nhưng trường hợp sau có sự khác biệt tinh tế, y học gọi là da bị bầm tím có tính mẫn cảm, không có liên quan đến tình trạng thiếu tiểu cầu.
Nhóm 4: Bệnh hệ hô hấp

Nhóm bệnh này chủ yếu xem Vũ Khúc, kế đến là Thiên Đồng. Nếu Thất sát, Phá quân hội hợp với các sao Sát - Kị, nhất là Vũ khúc hóa Kị, thì bệnh tình nghiệm trọng, hoặc bị ác tính.

Nhưng cũng có một số bệnh chứng không có liên quan đến các tinh hệ chủ về bệnh đường hô hấp như đã thuật ở trên; như hen suyễn thường xem Thái âm, Thiên lương, nếu hen suyễn là tính bẩm sinh thì xem tinh hệ "Liêm trinh - Thất sát". Trường hợp trước là bệnh ở ống phế quản, trường hợp sau là bệnh dị ứng bẩm sinh.

Nếu là bệnh viêm ống phế quản cấp tính, thì lấy tinh hệ Vũ khúc gặp Hỏa tinh, Linh tinh làm ứng nghiệm, có Thiên mã cùng bay đến, thì bệnh tình càng nghiêm trọng. Bệnh viêm ống phế quản mãn tính cũng có thể xem Vũ khúc, nhưng nếu do ngoại vật xâm nhập lâu ngày mà gây ra bệnh, như người hút nghiện thuốc lá, hay công nhân làm việc ở nơi nhiều bụi, thì xem Thiên đồng, Cự môn có các sao Sát - Kị tụ tập, có thể phát triển thành bệnh tràn khí phổi (pulmonary emphysema)

Ho gà thì lấy Thiên Lương làm điềm tượng, nhất là tinh hệ "Thiên đồng - Thiên lương" gặp sát tinh, có Thiên mã, phần nhiều chủ về bệnh ho gà. Khác với tắc nghẽn cơ tim là tinh hệ "Thiên đồng - Thiên lương" gặp sát tinh, mà không có Thiên mã.

Lao phổi (phổi kết hạch) thì xem tinh hệ "Liêm trinh - Thất sát", hoặc tinh hệ "Vũ khúc - Thất sát". Nếu nguyên cục gặp tinh hệ này, đến đại hạn hoặc lưu niên, gặp cung hạn tật ách Thái âm hóa Kị hội Hỏa Linh là bệnh tình nghiêm trọng, thường phát triển đến giai đoạn cuối.

Bệnh tràn khí phổi cũng xem Vũ khúc, nếu Vũ khúc hóa Kị, bị Liêm trinh hóa Kị của cung hạn xung hội, lại gặp các sao Thiên hình, Thiên nguyệt, Âm sát thì ứng nghiệm.

Một nhóm sao khác chủ về tràn khí phổi, là Phá quân đồng cung với Văn khúc hóa Kị. Còn Vũ khúc hóa Kị đồng cung với Văn khúc hóa Kị thì chủ về kéo đàm, hen suyễn.

Nếu bệnh ở cổ họng thông thường là viêm amidan, xem Cự môn hóa Kị thì càng đúng. Nếu là bệnh bạch hầu, thì xem tình hình Thái âm và Cự môn xung hội, nếu các sao Sát - Kị trùng trùng thì ứng nghiệm. Nếu là viêm họng thì lấy Địa không, Địa kiếp, Đại hao làm biểu trưng. 
Nhóm 5: Bệnh hệ tiết niệu, cơ quan sinh dục

Nhóm bệnh này, thì xem Thiên đồng, Thiên tướng, Liêm trinh.

Khi bệnh tình phát triển đến giai đoạn cuối, nhất là những bệnh có tính viêm, thì xem Thiên lương, Thất sát, Phá quân.

Hễ viêm thận cấp tính hay mãn tính, phần nhiều đều lấy Liêm Trinh làm ứng nghiệm. Nếu Liêm trinh gặp Tham lang đồng độ, hoặc vây chiếu có sát tinh, hoặc Liêm trinh hóa Kị có sát tinh, đều chủ về viêm thận.

Nhưng nếu viêm thận do hệ sinh dục bị nhiễm trùng gây nên, thì không gặp Tham Lang cũng ứng nghiệm, ví dụ như tinh hệ "Liêm trinh - Thiên tướng" bị Kình Đà giáp cung, Hỏa tinh và Linh tinh giáp cung, hay cách "Hình Kị giáp ấn" đều có thể mắc bệnh nhiễm trùng này.

Nếu bệnh viêm thận phát triển đến giai đoạn mặt bị thũng, hoặc thậm chí ngực hay bụng giữ nước, thì lấy niên hạn cung tật ách gặp tinh hệ "Thiên đồng - Thái âm" và các sao sát kị, làm thời kỳ ứng nghiệm.

Bệnh bàng quang làm khó tiểu tiện, thì xem Thiên tướng, trường hợp đồng cung với Đà la là đúng. Nếu là bệnh do tuyến tiền liệt gây ra tiểu tiện khó, thì lấy Tham lang, Liêm trinh làm ứng nghiệm, tinh hệ "Hỏa Tham", hay "Linh Tham" càng chủ về bệnh này.

Niệu đạo kết sỏi, hay sỏi bàng quang, thì xem tinh hệ "Liêm trinh - Thiên tướng", lấy trường hợp khi bị Kình dương và Đà la giáp cung, hay cách "Hình Kị giáp ấn" là đúng. Có lúc tinh hệ "Thiên đồng - Cự môn" hóa Lộc, bị Hỏa tinh và Linh linh giáp cung, cũng chủ về bệnh này. Tinh hệ "Thiên đồng - Cự môn" chủ về bệnh ở đường ống niệu, niệu đạo kết sỏi cũng có thể gây tiểu tiện khó.

Bệnh tiểu tiện khó trái ngược với bệnh đái tháo nhạt, là tiểu ra quá nhiều nước. Chứng đái tháo nhạt, Đông y cho rằng do thận hư, vì vậy xem Thái âm, Thiên đồng. Nhưng cũng do "thùy thể" sau não phân tiết thất thường mà gây ra, thì chọn xem Thái dương hóa Kị, hội Cự môn gia sát tinh làm ứng nghiệm.

Các bệnh về tính dục liên quan đến hệ tiết niệu, đều xem Tham lang, Liêm trinh, lấy trường hợp gặp các sao Đào Hoa, Văn Xương, Văn Khúc, Hóa Kị làm ứng nghiệm. Thời kỳ ứng nghiệm, có khi kéo dài đến lúc gặp niên hạn Thiên Đồng thủ cung tật ách mới phát tác. Hoặc ngược lại, cung Tật Ách của nguyên cục gặp Thiên đồng, đến niên hạn "Tham lang - Liêm trinh" thủ cung tật ách mới phát tác. Hai nhóm tinh hệ cũng có sự phân biệt, trường hợp trước là do thể chất dễ nhiễm bệnh tính dục, trường hợp sau là do thể chất dễ nhiễm bệnh hệ tiết niệu.

Cho nên, các bệnh như thoát vị bẹn, sa đì, viêm tinh hoàn, lấy tinh hệ "Liêm trinh - Thiên tướng" làm điềm tượng. Nhóm tinh hệ này, dù có gặp sao Lộc, cũng không thể xem là tránh được nguy cơ mắc bệnh tiểu đường. Nếu nguyên cục là "Liêm trinh - Thiên tướng", mà Liêm trinh hóa Lộc (có lúc còn hội Lộc tồn), thường ở Đại hạn Liêm trinh lại gặp Lưu lộc thì phát bệnh. Cho nên Hóa Quyền, Hóa Lộc, Hóa Khoa không đại biểu cho việc tránh mắc bệnh, đây là một ví dụ.
Nhóm 6: Bệnh ở ngũ quan

Bệnh ở ngũ quan rất phức tạp, thông thường là do bệnh ở nội tạng phát bệnh mà dẫn đến. Đẩu Số nghiên cứu về bệnh tật, cổ nhân để lại tư liệu chứng nghiệm không nhiều. Vương Đình Chi tuy có nỗ lực nghiên cứu bổ xung, nhưng do thời gian và kiến thức y học đều có giới hạn, nên tư liệu chứng nghiệm về bệnh tật ở ngũ quan càng không được đầy đủ.

Đông y giải thích bệnh tật ở ngũ quan chỉ căn cứ lý luận âm dương ngũ hành và lý thuyết tạng phủ, thực ra không đủ để từ đó, luận đoán ra nhiều bệnh tật ở ngũ quan. Ví dụ như mắt bị cườm nước (glaucoma) rất khó tìm ra tinh hệ chính xác tuyệt đối. Vương Đình Chi kể, ông từng tình cờ gặp một trường hợp Thái dương lạc hãm hóa Kị mà mắt bị bệnh cườm nước (glaucoma), nhưng trước đó Ông cũng từng gặp một người bị mù mắt vì bệnh cườm nước, mà cung Tật Ách lại là Thiên Lương. Vì vậy, Vương Đình Chi đề nghị xem Thái Dương, Thiên Lương, Cự Môn, là điềm tượng chủ các bệnh về mắt, để bạn đọc tham khảo.

Viêm giác mạc mắt là Thái Dương gặp sát tinh, hoặc Thái Dương đồng cung với Hỏa tinh. Chứng bệnh này lấy trường hợp Thái dương hóa Quyền hay hóa Lộc làm ứng nghiệm. Nếu gặp các sao Kình dương, Thiên hình, Thiên sứ, mà Thái dương hóa làm sao Kị, sẽ chủ về phẫu thuật ở bộ phận mắt, nhẹ thì viêm thần kinh thị giác.

Mắt mù do bệnh tiểu đường gây ra, thì xem tinh hệ "Liêm trinh - Thiên tướng". Nếu do nguyên nhân khác gây ra, vẫn xem Thái dương, hoặc tinh hệ "Thiên đồng - Thái âm".

"Thiên đồng - Thái âm" chủ về Thận, gây ra bệnh mắt là do tạng thận gây ra. Vì vậy, thận khí hư, thường sẽ bị chứng ruồi bay trước mắt, cũng lấy nhóm tinh hệ này làm ứng nghiệm

Bệnh tai, các nhà Đẩu Số cổ đại chỉ xem Thất Sát, nếu có Long Trì đồng độ, sẽ chủ về tai điếc.

Nếu do thận hư gây bệnh ở lỗ tai, tai ù, thì có thể dùng tinh hệ chủ về bệnh thận để luận đoán, như tinh hệ Thái Âm.

Nhưng nếu là bệnh viêm tai giữa, theo chứng nghiệm của Vương Đình Chi, thì tinh hệ "Vũ khúc - Thiên tướng" có Hỏa tinh hội hoặc vây chiếu, thường chủ về chứng bệnh này.

Viêm họng, lấy Cự Môn làm ứng nghiệm, và cũng xem Thiên đồng, Thái âm.

Khoang miệng thường bị lở, miệng lưỡi bị rát bỏng, thì lấy Cự môn hóa Kị làm điềm tượng.

Đau răng thì phải xem Phá Quân, Vũ Khúc, sâu răng thì xem Thiên tướng có bị sát tinh giáp cung hoặc hội chiếu hay không.

Chảy máu mũi thì xem Liêm Trinh, không cần hóa Kị, gặp sát tinh và Âm Sát, là chủ về bị chảy máu mũi.

Mũi dị ứng và viêm mũi, thì lấy tinh hệ "Liêm trinh - Thất sát", và tinh hệ "Liêm trinh - Phá quân" có kèm sát tinh làm điềm tượng. 
Nhóm 7: Bệnh phụ khoa

Các sao về bệnh phụ khoa, cổ nhân tương truyền là Liêm Trinh và Tham Lang, các sao khác như Tử vi, tinh hệ "Thái âm - Thiên cơ", Thiên đồng, Thiên tướng, Phá quân, cũng chủ về đau bụng kinh, huyết trắng, nhưng ý nghĩa trùng lặp, phân biệt giới hạn không rõ, cho nên lúc luận đoán hơi chung chung.

Luận đoán đặc biệt như Thiên Lương đồng cung với Hỏa tinh, Linh tinh, chủ về bệnh ung thư vú, mức độ chính xác rất cao. Theo chứng nghiệm của Vương Đình Chi, nếu Tham Làm hóa Kị xung hội Liêm trinh hóa Kị, hoặc Vũ khúc hóa Kị, đồng thời còn gặp Kình Đà xung chiếu, thì chủ về tử cung hoặc ống dẫn trứng có khối u, độ chính xác cũng cao. Nhưng đáng tiếc, những chứng nghiệm như vậy không nhiều, vẫn còn chờ nghiên cứu thêm. Hiện chỉ thuật một số nguyên tắc rất có giới hạn.

Bệnh phụ khoa thường gặp nhất là đau bụng kinh. Mếu không kèm bị viêm thì có thể là Thiên Tướng, có lúc là tinh hệ "Tử vi - Thiên tướng". Nếu có kèm bị viêm là Tham Lang. Nếu ở hai cung Tị hoặc Ngọ mà gặp sát tinh, thì chủ về lệch tử cung, nội mạc tử cung bị dị dạng bẩm sinh.

Nếu kinh nguyệt không điều hòa và ra nhiều máu, thì xem Thiên Đồng, hoặc tinh hệ "Thiên cơ - Thái âm". Trường hợp tính chất của Thiên Đồng là ôn hòa, thì không kèm bệnh biến, gọi là "xuất huyết có tính cơ năng". Nếu tinh hệ "Thiên cơ - Thái âm" có sát tinh, sẽ chủ về bệnh biến, nếu nghiêm trọng có thể là sa tử cung.

Bệnh sa tử cung cũng gặp ở trường hợp Thiên Tướng thủ cung tật ách, gặp các sao Đào Hoa và Thiên Hư, Địa không, Địa kiếp, phần nhiều là do sau khi sinh cơ thể hư nhược gây ra.

Nếu viêm nội mạc tử cung, viêm ống dẫn trứng, thì lấy Tử vi độc tọa ở hai cung Tý và Ngọ làm điềm tượng; nếu có Kình dương đồng độ, lại gặp Hàm Trì, Đại Hao, nhất là gặp Hỏa tinh, Linh tinh, thì càng chính xác.

Hai sao Liêm Trinh, Thiên Cơ chủ về bệnh kín của phụ nữ, phần nhiều là kinh nguyệt kho ít, hoặc huyết trắng (bạch đới), còn kèm bị viêm âm đạo.

Nhưng nếu đã gặp tinh hệ chủ về bị viêm, mà đến niên hạn có sao Thiên Tướng, Đà la, Âm sát, Thiên hình, Thiên nguyệt, Thiên đức thủ cung tật ách, thường thường có thể phát triển thành khối u, hoặc ung thư. Có lúc đến niên hạn Vũ khúc hóa Kị thì cung tật ách cũng chủ về ứng nghiệm.

Phá Quân thủ cung tật ách, thì bệnh tình rất là nghiêm trọng, nhất là hội hợp với Vũ khúc hóa thành sao Kị, lại gặp Hỏa tinh và Linh tinh giáp cung, tạp diệu lại gặp các sao hư, hao, hình, nguyệt, phần nhiều chủ về ung thư cổ tử cung, nhưng hiện tượng bề ngoài chỉ là ra huyết trắng.

Nếu là viêm âm đạo do nhiễm trùng, thì cần chú ý Phỉ Liêm

Viêm tuyến vú thì xem Thiên lương, cần chú ý xem có Hỏa tinh, Linh tinh đồng độ hay không, có thì bệnh tình có thể phát triển thành ác tính.

Phụ nữ mang thai thì lấy trường hợp cung Mệnh, cung Phúc đức, hoặc cung Phu thê, gặp Hồng loan, Thiên hỷ làm nguyên tắc luận đoán. Nếu lưu niên gặp Lưu Xương, Lưu Khúc hội chiếu, cung Tử Tức của Lưu niên cát lợi, thì có thể mẹ tròn con vuông. Nhưng nếu cung Tử Nữ của nguyên cục gặp Thiên đồng, Thái âm, nhưng một sao hóa làm sao Kị, lại gặp sao Không, và các sao Hoa cái, Âm sát, Thiên sứ, Thiên hư, Đại hao, thì có thể không sinh đẻ. Lúc này cung Tật ách cũng có điềm tượng, có thể hiển thị bệnh biến về tính dục bẩm sinh, hoặc bệnh biến về tính dục hậu thiên. Hai tinh hệ Tham lang và "Thiên cơ - Thái âm" ở hai cung Tị hoặc Ngọ là điềm tượng dị dạng bẩm sinh. Có thể bổ cứu là Thiên Tướng, nhưng nếu Thiên tướng là cách "Hình Kị giáp ấn", gặp Hỏa tinh và Linh tinh giáp cung, hay Kình dương và Đà la giáp cung, thì cũng có thể bị dị dạng bẩm sinh.
Bảy nhóm bệnh chứng thuật ở trên chưa được toàn diện, còn rất nhiều chứng bệnh thiếu chứng nghiệm, Vương Đình Chi kể, ông từng gặp một trường hợp, đoán là bị sa tử cung, không sinh nở được, nhưng rốt cuộc lại là chứng bệnh rất hiếm gặp, gọi là chứng "thạch nữ", bà ta kết hôn hơn 10 năm mà vẫn không thể gần gũi với chồng. Những căn bệnh hiếm gặp, cổ nhân không để lại nguyên tắc luận đoán, ứng nghiệm như thế nào phải do người đời nay tìm tòi nghiên cứu