Khởi điểm của ông Trị chỉ có đúng địa bàn 12 cung. Với giả sử rằng lý
tuần hoàn của trái đất ứng với một đời người (một năm = một đời người
chết già) ông suy ra được rằng Thái Âm ứng với tháng, Thái Dương ứng với
giờ bằng lý thiên văn.
(Theo tôi, nhìn ra Thái Âm ứng tháng, Thái Dương ứng giờ là đã tìm ra
cái chìa khóa quan trọng nhất của khoa Tử Vi. Theo lời ông Trị tự thuật
thì ông suy ngẫm về cái bí mật của cặp sao Âm Dương liên tục 18 năm mà
không tìm ra manh mối gì cả, sau nhờ thiền đốn ngộ mới hiểu ra cái lý
của chúng).
Các sao còn lại là kết quả tất yếu, như sau:
1-Tử Phủ phải có mặt vì Âm Dương không phản ảnh đúng những biến đổi trên mặt địa cầu (lý này do tôi bổ túc).
2-Trong hoàn cảnh quân bình nhất của địa cầu, mọi cung đều phải có sao.
Hoàn cảnh này là tháng 2 (tiết xuân phân) và tháng 8 (tiết thu phân).
Nhưng địa bàn còn 9 cung trống, số sao thêm phải gần 9 mà thỏa lý âm
dương, tức là thỏa lý số chẵn, do đó số sao thêm phải là 10, cộng với 4
sao có sẵn là Âm Dương Tử Phủ, kết quả tổng số sao phải là 14. (Tạ Phồn
Trị).
Từ cách hình thành trên đây, có thể thấy Âm Dương Tử Phủ khác với 10 sao
còn lại, nên tôi gọi chúng là 4 đế tinh. Hình như cách gọi này nhiều
người không thích, nên cần phân biệt thêm là Tử Phủ ví như hai vua ở
trung ương (Tử chính Phủ phụ), Âm Dương như hai ông tướng vùng (mỗi
người một cõi, không có chính phụ).
3-Dùng lý của hậu thiên bát quái, định ra hai nhóm cung âm dương trên
địa bàn, coi nhóm sao bắc đẩu ứng với âm, nhóm nam đẩu ứng với dương thì
ra thứ tự các sao ứng với tháng 2 y hệt như lưu truyền, tức Tử Phủ Dần,
Thái Âm Mão, Tham Lang Thìn v.v… (Tạ Phồn Trị)
Tái khám phá này là một đột phá to lớn của ông Trị, vì xưa nay những
người nghiên cứu hoặc không hiểu 14 chính tinh ở đâu mà ra, hoặc cho
rằng mình hiểu thì lý luận lại thiếu tính khoa học.
4-Dùng lý chẵn của âm dương và đòi hỏi tụ tán của tháng 2 (bình hòa),
tháng 5 (cực đoan) thì phân ra được hai chùm sao Tử, Phủ. (Phần này do
tôi bổ túc).
Kế tiếp, về tứ Hóa:
-Tứ Hóa ứng với 4 sự biến đổi lớn trên địa cầu, do vị trí tương đối của
mặt trời mà sinh ra, nên Lộc Quyền Khoa Kỵ chẳng gì khác hơn là 4 thực
thể tương ứng của 4 mùa xuân hạ thu đông. (Đây không phải là tái khám
phá của ông Trị, vì nhiều nhà nghiên cứu Tử Vi đã tin như vậy từ lâu
rồi).
-Hóa ứng với thế cực đoan, thế cùng (cùng tắc biến) nên hoàn cảnh được
xử đụng để định tứ hóa là tháng 5 hoặc tháng 11. Hai tháng cho lời giải
như nhau nên chọn tháng 5. Thái Âm ứng tháng nên tháng 5 thì Thái Âm cư
Ngọ, ngoài ra phải thêm một lý nữa là mượn tính bình đẳng (nhiệt độ) của
trục Mão Dậu để đưa hai sao Liêm Phá từ Mão sang Dậu để tăng độ cực
đoan đến mức tối đa trong bài giải tứ Hóa. Kết quả được Phủ Tỵ, Đồng Âm
Ngọ, Tham Vũ Mùi, Cự Nhật Thân, Liêm Phá Dậu (mượn cung của Tướng), Cơ
Lương Tuất, Tử Sát Hợi. (Tạ Phồn Trị).
-”Ta” có bản chất của ta, đồng thời chịu ảnh hưởng bên ngoài, cộng lại
thành số mệnh. Trong bài toán tử vi “ta” ứng với tháng ngày giờ, ảnh
hưởng bên ngoài ta ứng với năm, gồm có can năm và chi năm. (Phần này do
tôi bổ túc).
-Ảnh hưởng bên ngoài ta có thể phân làm hai loại, một là của mặt trời,
hai là các thiên thể còn lại trong thái dương hệ. Ảnh hưỏng của các
thiên thể còn lại trong thái dương hệ được phản ảnh qua các sao thuộc
chi năm, nhất là vòng Thái Tuế. Ảnh hưởng của mặt trời vì thế phải được
phản ảnh qua can năm. Do đó tứ Hóa định bằng can năm. (Phần này do tôi
bổ túc).
-Phó tinh là sao không có bản sắc riêng, nên không có yếu tố biến hóa.
Do đó phó tinh không hóa. Phó tinh gồm có: Tướng là phó tinh của Phá
Quân, Phủ là phó tinh của Tử Vi, và Sát là phó tinh của Thiên Phủ (Tạ
Phồn Trị).
-Lộc Quyền ứng với hai mùa Xuân Hạ. Xuân Hạ cùng ứng với sự sinh động,
tiến bộ, hòa hợp nên Lộc Quyền được xét chung với nhau, theo lý “Lộc
trước Quyền sau”. Thêm nữa, vì hai mùa Xuân Hạ phối hợp tốt đẹp với
nhau, trong bài toán Tử Vi hai chùm Tử Phủ được phối hợp với nhau và vận
chuyển thuận lý (theo chiều thời gian) để định Lộc Quyền. Ra được kết
quả y hệt như bảng Lộc Quyền hiện hành. (Tạ Phồn Trị).
Theo tôi đây là một tái khám phá rất vĩ đại, vì nguồn gốc tứ Hóa là một
bí mật to lớn của khoa Tử Vi, các lập luận khác mà tôi được đọc qua đều
thấy rất hàm hồ tùy hứng.
-Kỵ ứng với mùa đông. Đông có tính chết chóc, thụt lùi, chia rẽ nên bài
toán hóa Kỵ có hai đặc điểm. Một là hai chùm Tử Phủ phải tách rời nhau
và đều vận chuyển nghịch lý. Hai là năm dương thì chính nhóm sao dương
(tức chùm sao Tử Vi) bị hóa Kỵ, năm âm thì chính nhóm sao âm (tức chùm
sao Thiên Phủ) bị hóa Kỵ. Dùng luật này suy ra kết quả của nhóm can
dương là: Giáp Dương, Bính Liêm, Mậu Cơ, Canh Đồng, Nhâm Vũ. (Tạ Phồn
Trị)
Kết quả này của ông Trị hết sức quan trọng, vì nó giải vấn nạn can Canh.
“Canh Nhật Vũ Âm Đồng” hay “Canh Nhật Vũ Đồng Âm”. Theo lý luận này của
ông Trị can Canh Âm không thể nào hóa Kỵ vì Âm là sao của nhóm âm,
không thỏa điều kiện năm dương sao dương hóa Kỵ.
-14 chính tinh không đủ để giải bài toán hóa Kỵ cho 5 can âm, vì vậy Tử Vi phải đặt thêm cặp sao Xương Khúc. (Tạ Phồn Trị).
Đây là một luận đề quan trọng của ông Trị. Nó giải thích lý do tại sao Xương Khúc có mặt trong bài toán Tử Vi.
-Hóa Khoa ứng với mùa thu, dừng lại, điều chỉnh sau sự phát triển quá độ
của mùa hạ. Điều chỉnh là không tiến cũng không lùi vì vậy luật định
hóa Khoa phải khác với Lộc Quyền, và cũng khác với Kỵ. (Tạ Phồn Trị).
-Khi giải bài toán hóa Khoa, 14 chính tinh và Xương Khúc vẫn chưa đủ, nên phải thêm hai sao Tả Hữu. (Tạ Phồn Trị).
Đây là một luận đề quan trọng khác của ông Trị. Nó giải thích tại sao Tả Hữu có mặt trong bài toán Tử Vi.
Mặc dù có vài góc cạnh bất đồng với ông
Trị, tôi tin là ông đã lật mở những bí mật quan trọng bậc nhất của khoa
Tử Vi. Thuyết của ông giải thích được tại sao có 14 chính tinh, tại sao
các chính tinh lại theo thứ tự như vậy, tại sao tứ hóa lại được an như
vậy mà không khác; đều là những vấn nạn hàng đầu của khoa Tử Vi. Ngoài
ra, cùng trong cái lý nhất quán ấy ông suy ra được lý do hiện hữu của
hai cặp sao bí mật của Tử Vi là Xương Khúc Tả Hữu cũng như lý do tại sao
chúng được tham dự trong bài toán tứ Hóa (các sao Không Kiếp Hình Riêu
Thiên Địa Giải Thai Cáo Thai Tọa Quang Quý thì có thể suy ra được sau
khi chấp nhận sự hiện diện của Xương Khúc Tả Hữu nên không bàn đến ở
đây).
Quan trọng hơn nữa đối với tôi là thuyết của ông Trị hoàn toàn phù hợp
với phương pháp lý luận của khoa học hiện đại. Điểm này cần nhấn mạnh,
vì trước và sau ông Trị đã có nhiều vị cố giải thích lý do hiện hữu của
14 chính tinh và tứ Hóa rồi, nhưng tôi thú thật là đọc qua các lý luận
ấy tôi chẳng thấy phù hợp chút nào với kiến thức khoa học hiện đại.
Chẳng hạn thuyết cho rằng mỗi chính tinh ứng với một sao trên trời có
vấn đề lớn là trục trái đất liên tục xoay trong vũ trụ nên vị trí các
sao bây giờ đã khác hẳn mấy ngàn năm trước, và vài ngàn năm sau lại càng
khác xa hơn nữa.
Tôi rất vui mừng vì thế hệ sau tôi còn nhiều người muốn nghiên cứu khoa
Tử Vi một cách nghiêm chỉnh như anh. Trước khi trả lời câu hỏi, tôi cần
nói rõ rằng mấu chốt của bài toán LQKK được ông Trị hé mở mới 11 năm
trước thôi (1995), và ngay trong chính lời giải của ông Trị tôi đã thấy
có vài vấn đề mà tôi đã mạn phép sửa chữa.
Nói rõ thế để anh cũng như các bạn trẻ khác thấy rằng việc nghiên cứu Tử
Vi cũng như nghiên cứu khoa học, chẳng có ai có mọi lời giải, chúng ta
-bất chấp tuổi tác phái tính- phải học hỏi lẫn nhau, và trong các vấn đề
chưa ngã ngũ thì mỗi người phải tự đốt đuốc mà đi, tìm con đường cho
riêng mình, rồi khi thấy người ta có điểm hay thì mạnh dạn bỏ cái dở kém
cùa mình mà học cái ưu việt của họ; ngược lại thấy cái sai của người
hay cũng phải dám mạnh dạn bỏ đi hoặc sửa lại cho đúng. Tóm lại phải
luôn luôn mở mắt ngóng tai, lọc cái sai chọn cái đúng, tuần tự nhi tiến.
Lời mào đầu như vậy đã xong, nay tôi xin vào đề:
Theo tôi, Tử Vi là bài toán tổng hợp của rất nhiều tín hiệu. Chủ trương
của tôi là không bỏ tín hiệu nào cả, nhưng phải phân định tín hiệu nào
là chính, tín hiệu nào là phụ.
Các cung trên lá số chứa sẵn một loại tín hiệu, đó là tín hiệu ngũ hành.
Tín hiệu này dĩ nhiên có ảnh hưởng, nhưng vấn đề là ảnh hưởng của nó
mạnh bao nhiêu. Câu hỏi này chỉ trả lời được khi ta xét mỗi một vấn đề
từ gốc rễ của nó.
Trong bài toán tứ Hóa, nhờ bài giải nhất quán của ông Trị (phù hợp với
cách an tứ Hóa được lưu truyền) ta có thể tin rằng tứ Hóa quả đã được
người xưa đặt ra để tương ứng với 4 trạng thái của địa cầu (Xuân Hạ Thu
Đông) và phản ánh 4 cảnh biến của đời sống (Sinh Thành Trụ Diệt). “Hóa”
như vậy có nghĩa là biến đổi từ một hoàn cảnh có sẵn. Thực thể nhận sự
biến đổi dĩ nhiên là các chính tinh liên hệ hoặc Xương Khúc Tả Hữu.
Vì là tác nhân của sự biến đổi, khả năng tạo biến đổi dĩ nhiên phải là
tính chất chính của tứ Hóa. Biến đổi có ý nghĩa nhất khi nó chính là đáp
số phù hợp với đòi hỏi của hoàn cảnh. Từ đó tôi suy ra rằng hóa Lộc
mạnh nhất trong hoàn cảnh cần Lộc, hóa Quyền mạnh nhất trong hoàn cảnh
cần Quyền v.v…
Lấy trường hợp hóa Lộc. Tôi ví Lộc như đồ ăn. Chính tinh miếu vượng
không bị phá cách như nhà giàu no đủ, thêm đồ ăn cũng tốt đấy (nhưng
phải coi chừng bội thực hoặc “ăn no rửng mỡ” thành tai hại). Ngược lại
chính tinh cực hãm thì như Hàn Tín sắp chết đói, hóa Lộc dù theo lý ngũ
hành kém cỏi bao nhiêu vẫn là “bát cơm Phiến mẫu”, chính là yếu tố “cùng
tắc biến” thay đổi cả một đời người.
Thành thử tôi cho rằng yếu tố quan trọng nhất để định độ mạnh yếu của LQKK là hoàn cảnh của chính tinh (hoặc XKTH).
Các thuyết như Lộc Quyền đắc ở mộc hỏa, hãm ở kim thủy, hóa Lộc vô dụng ở
tứ Mộ, Kỵ đắc ở tứ mộ v.v… đa số dựa trên lý ngũ hành của các cung.
Chúng ta đều biết các khoa mệnh lý đều dựa trên hai thuyết hợp lại là âm
dương và ngũ hành (gọi chung là thuyết âm dương ngũ hành). Dựa trên
cách hình thành, tôi cho rằng trong khoa Tử Vi lý âm dương đóng vai chủ
yếu, ngũ hành chỉ là phụ mà thôi. Thế nhưng các luật ngũ hành của tứ Hóa
theo tôi vẫn có chỗ hữu ích, miễn là ta biết giới hạn phạm vi (mà tôi
cho là khiêm nhượng) của chúng khi áp dụng vào thực tế.
Vắn tắt, khi luận tứ Hóa tôi coi hoàn cảnh của chính tinh (hoặc XKTH) là
chủ yếu, lý ngũ hành và các lý khác (kể cả Tuần Triệt) như gia vị tăng
giảm hiệu ứng mà thôi.
Ngoài ra, cũng xin tiết lộ một tái khám phá của tôi (hoàn toàn lý
thuyết, còn cần nhiều kiểm chứng) là Khôi Việt có công năng giải cái
nguy của Kỵ. Đặc biệt khi chính tinh hoặc Xương Khúc cực hãm lại hóa Kỵ,
được có Khôi hoặc Việt cùng cung hoặc hội họp thì chẳng sợ cái nguy của
Kỵ nữa.
Nhưng tôi muốn chia sẻ với bạn thế này. Thời còn trẻ, tôi mê Tử Vi rồi
bỏ nó vì thấy nó không trả lời được nhiều câu hỏi có thể gọi là “cắc cớ”
của tôi, chẳng hạn:
1. Chính tinh: Tại sao Tử Vi có 14 chính tinh? Chính tinh được đặt ra
bằng lý nào? Tại sao đúng 14 chính tinh mà không phải 12 (số cung trên
địa bàn) hoặc 16 (vì 16=2×8 mà 8 là bát quái)? Tại sao Tử Vi hành thổ,
Thất Sát hành kim v.v…? Một số sao mỗi sách nói một hành khác nhau vậy
sách nào đúng, và tại sao đúng? Tại sao Thiên Đồng hãm ở Dậu (cung chính
kim, sinh tính thủy của Thiên Đồng), tại sao Tử Vi kém ở Tí mà miếu ở
Ngọ v.v…
2. Tứ hóa: Tứ hóa có ý nghĩa gì? Tại sao tứ Hóa an theo can năm mà không
theo chi năm, hoặc tháng, hoặc giờ? Tại sao tứ Hóa an theo sao khác
thay vì theo cung? Tại sao can Giáp lại Liêm Phá Vũ Dương mà không phải
Phá Liêm Dương Vũ chẳng hạn, v.v…
Khi trở lại mệnh lý rồi, đọc nhiều sách tôi vẫn chẳng tìm được lời giải,
mãi khi tình cờ đọc được sách của ông Trị mới như thấy ánh sáng cuối
đường hầm. Mặc dù ông Trị chưa có lời giải cho 100% mọi câu hỏi của tôi,
tôi cho rằng ông đã mở được cánh cửa bí mật nghìn năm của khoa tử vi,
hy vọng chúng ta sẽ nương theo đó mà đạt những bước tiến mới giúp khoa
Tử Vi nhảy vọt tới trước.
Hình như bạn cũng có nhiều câu hỏi giống tôi ngày xưa. Nhưng bây giờ bạn
may mắn hơn vì bạn có một cái chìa khóa quan trọng trong tay, đó là
những bước khởi đầu do ông Trị đề ra. Chỉ việc đọc sách cho kỹ (gạn lọc
lỗi chính tả) bạn cũng sẽ nắm được cái chìa khóa đó y như tôi vậy.
Chúc việc nghiên cứu của bạn sớm thu hoạch nhiều kết quả.
Vài dòng đóng góp.
Nền tảng của mọi khoa mệnh lý Á đông là thuyết âm dương ngũ hành, điểm
này thiết tưởng cần nhấn mạnh, kẻo không chú ý thì bị lạc đề mà không
hay.
Tinh đẩu trong Tử Vi không gì khác hơn là các lời giải của thuyết âm
dương ngũ hành trong trường hợp đặc thù của Tử Vi (cũng như thần sát là
các lời giải của thuyết âm dương ngũ hành trong trường hợp đặc thù của
các khoa ngũ tinh khác với Tử Vi).
Bởi vậy, rất cần chú ý. Đừng nệ vào ngôn từ, mà phải nắm cái gốc. Một
khi hiểu tinh đẩu chính là lời giải của âm dương ngũ hành rồi thì sẽ có
cái nhìn khác về tinh đẩu.
Tinh đẩu = một cách diễn tả lý âm dương ngũ hành.
Tóm lược lại, theo tôi âm dương ngũ hành là cái lý bề sâu của khoa Tử
Vi, tinh đẩu là cách diễn tả bề mặt của cái lý đó cho mọi người dễ hiểu;
nên nếu bảo “Tử Vi tinh đẩu quan trọng hơn âm dương ngũ hành” tôi sẽ
đồng ý, ấy bởi vì nếu đã hiểu ý nghĩa tinh đẩu rồi mà còn thêm âm dương
ngũ hành vào nữa tức là áp dụng một phép tính hai lần, may lắm thì chỉ
thừa thãi mà thôi, nhưng nếu xui xẻo thì phạm sai lầm to lờn.
Vậy tại sao phải đặt vấn đề âm dương trọng hay ngũ hành trọng khi xét
tinh đẩu? Xin thưa là vì có nhiều vị làm việc “xét lại” ý nghĩa tinh đẩu
bằng lý âm dương ngũ hành, rồi thiên về một khía cạnh nào đó mà diễn
giải, tạo thành cơ nguy là càng diễn giải càng xa rời cái ý nghĩa của âm
dương ngũ hành vốn đã nằm sẵn sau các tinh đẩu. Cần chú ý đến âm dương
ngũ hành khi xét tinh đẩu là cốt để tránh cái nguy cơ đó.
Thí dụ: Xét cách Thiên Đồng cư Dậu. Cách này sách bảo là hãm địa. Đây là
một kết quả mà người xưa đã tìm ra và đã bao hàm ý nghĩa âm dương ngũ
hành ở đằng sau rồi. Thế nhưng đời sau có người không biết lại lập luận
rằng “Thiên Đồng thuộc dương thủy, mà Dậu là âm kim sinh thủy, nên Thiên
Đồng miếu vượng ở Dậu”. Nếu coi ngũ hành là tiêu chuẩn xét tinh đẩu thì
lập luận này có vẻ đúng (nhưng thực ra nó sai). Chính vì thế mà tôi mới
nhấn mạnh rằng khi xét cách cục (tức tinh đẩu) thì phải coi âm dương là
chính, ngũ hành là phụ. Một khi áp dụng quy luật ấy, sẽ (tái) khám phá
rằng quả nhiên Thiên Đồng hãm ở Dậu là hợp lý.
Dĩ nhiên, nếu đã nắm vững ý nghĩa của tinh đẩu rồi thì chẳng cần dùng lý
âm dương ngũ hành làm gì cho thừa thãi. Nhưng mấy người trong làng
nghiên cứu Tử Vi dám xưng là nắm vững ý nghĩa tinh đẩu? Riêng tôi có chủ
trương hồ nghi nên phương pháp của tôi là dùng lý âm dương ngũ hành để
tái lập lại ý nghĩa của mọi tinh đẩu (y như kiểu reverse engineering của
người tây phương).
Tái lập ý nghĩa tinh đẩu rất tốn công sức, nhưng tôi nghĩ nó sẽ giúp
chúng ta đạt một mức hiểu biết có tính gốc rễ đáng tin cậy, thay vì phải
học thuộc lòng tính chất tinh đẩu theo các sách xưa, vừa mất công vừa
lo ngại họa tam sao thất bổn.
Kế tiếp, xin bàn chuyện sao đồng hành với bản mệnh.
Nhận xét sơ khởi: Tinh đẩu phản ảnh lý âm dương ngũ hành theo quy luật của khoa Tử Vi (có khác với các khoa khác).
Tôi cho rằng trong bài toán Tử Vi, cần phân biệt hai lực lượng là “ta”
và “ngoài ta”. Theo suy luận của tôi, trong các tinh đẩu thì “ta” được
đại biểu bởi các sao liên hệ đến tháng ngày giờ gồm có chính tinh và các
phụ tinh Tả Hữu Xương Khúc Hình Riêu Không Kiếp Quang Quý Thai Tọa Thai
Cáo Thiên Địa Giải (Triệt thì tôi còn trong vòng suy nghĩ, chưa ra kết
quả tối hậu). “Ngoài ta” thì được đại biểu bằng can năm và chi năm. Tức
là Tứ Hóa, vòng Thái Tuế, vòng Lộc Tồn v.v… đều là những lực lượng
“ngoài ta” cả.
Còn lại nạp âm của năm sinh, tức là “bản mệnh” thì có liên hệ thế nào
với khoa Tử Vi, là “ta” hay “ngoài ta”. Ở đây tôi dùng lời giải có sẵn
của thuyết tam tài, theo đó can năm đại biểu trời, chi năm đại biểu đất,
“bản mệnh” là thực thể do cả trời đất cộng lại mà thành, nên đại biểu
nhân, tức là “ta”. Đây là cái “ta” ngoài lá số.
Cùng ứng với cái “ta” cả thì phải ăn khớp với nhau mới tốt. Bởi vậy có
nhu cầu so sánh, xem bản mệnh có phù hợp với cái “ta” trong lá số không.
Phù hợp thì như hai bộ phận ráp lại ăn khớp, tất có sự tốt đẹp, không
phù hợp thì như hai bộ phận trái cựa, dù tốt cũng không hoàn hảo.
Như vừa trình bảy ở trên, cái “ta” trong lá số được đại biểu bởi chính
tinh, Tả Hữu Xương Khúc và các sao liên hệ. Quan trọng nhất dĩ nhiên là
chính tinh.
Vấn đề là làm sao so sánh cái “ta” ngoài số (tức bản mệnh) và cái “ta”
trong lá số (tức chính tinh?). Ở đây lý âm dương không có lời giải rõ
rệt nào, do đó không có cách nào khác hơn là dùng lý ngũ hành.
Kế tiếp, giữa hai cái “ta” ngoài lá số và trong lá số thì cái nào gần
với con người thật của ta? Thiết nghĩ phải là cái ta ngoài lá số, vì cái
ta ấy phối hợp can năm và chi năm, nên có giao cảm tự nhiên với thiên
(can) và địa (chi). Từ đó suy ra:
1.-Chính tinh đồng hành với bản mệnh là lý tưởng hơn hết, vì như vậy là hai cái ta “như hai mà một”, ứng hợp hoàn toàn.
2.-Chính tinh sinh bản mệnh cũng tốt (vì cái ta thật sự được cái ta lý
thuyết sinh cho) nhưng không bằng trường hợp 1, vì như vậy là hai cái ta
khác nhau, thế nào cũng phải có lúc trái cựa.
3.-Bản mệnh sinh chính tinh tạm tốt, nhưng kém trường hợp 2, vì cái ta
thật sự phải sinh cho cho cái ta lý thuyết, không những có lúc trái cựa,
mà còn bị nhiều mệt mỏi nữa.
4.-Bản mệnh khắc chính tinh là cái ta thật khắc cái ta lý thuyết, bất lợi.
5.-Chính tinh khắc bản mệnh là cái ta thật sự bị khắc, bất lợi hơn hết.
Từ lý luận trên, có thể thấy rằng đòi hỏi
tương ứng ngũ hành giữa bản mệnh và chính tinh là kết quả của một lập
luận hợp lý. Chỉ có vấn đề cấp độ mạnh yếu của tương ứng này là không rõ
mà thôi. Tôi cho rằng đây là một tương ứng khá mạnh, ấy bởi vì ngũ hành
là cái lý duy nhất có thể xử dụng để suy ra kết quả trong trường hợp
này.
Tóm lại, tôi đồng ý sự tương ứng ngũ hành giữa chính tinh và bản mệnh là
một yếu tố quan trọng. Về điểm này, tôi tin theo kết luận của cụ Thiên
Lương.
Nhưng -vì đã coi âm dương là lý quan trọng nhất của Tử Vi- tôi không tin
độ tương ứng (ngũ hành) giữa bản mệnh và chính tinh là yếu tố áp đảo.
Về điểm này, chủ trương của tôi có phần khác với học phái Thiên Lương.
Vài dòng đóng góp.
1. Một vị bảo rằng tôi nói ông Tạ Phồn Trị thiền đốn ngộ 18 năm suy ra rằng can Canh Thiên Đồng hóa Kỵ.
Sự thật: Chuyện ông Trị đốn ngộ ra là cái lý của cặp sao Âm Dương, không
phải cái lý của tứ Hóa. Ông cũng không hề nói rằng ông ngồi thiền 18
năm, chỉ nói là bế tắc về ý nghĩa của cặp Âm Dương 18 năm, nhờ thiền đốn
ngộ mới suy ra (thời gian thiền không rõ, nhưng đốn ngộ có thể trong
một giây hoặc một sát na).
Xem lại bài đầu tôi viết trong mục này sẽ thấy y hệt như thế.
2. Một vị khác bảo rằng ông Trị cho rằng thuyết ngũ hành là lời giải gần đúng của thuyết âm dương.
Sự thật: Ông Trị không hề chủ trương ngũ hành là phép tính gần đúng của
âm dương (và riêng bản thân tôi nghi rằng ông Trị vẫn cho rằng thuyết
ngũ hành là toàn bích như mọi người khác).
Thuyết “ngũ hành chỉ gần đúng” này là do tôi tái khám phá ra bằng phương pháp khoa học, chẳng dính líu gì với ông Trị.
3. Khá nhiều người cho rằng ông Trị chủ trương khảo sát Tử Vi bằng phương pháp hoàn toàn khoa học.
Sự thật: Chủ trương của ông Trị khó biết vì ông chỉ ra đúng một quyển
sách mỏng “Chu dịch dữ tử vi đẩu số” rồi biến mất, nhưng từ sách này tôi
thấy ông là một dịch lý gia theo nghĩa rất cổ điển, nào là số thái
huyền, nào là cách an Tử Vi liên hệ đến “đế xuất hồ Chấn”, nào là cách
Cự Nhật ứng với quẻ “thủy hỏa kí tế”, nào là Càn Tốn đối nhau, Khôn Cấn
đối nhau trong hậu thiên bát quái v.v…
Thú thật đọc sách của ông Trị tôi thấy quá huyền hoặc, hiển nhiên không phải là một quyền sách khoa học.
Nhưng đời này rất lạ, có nhiều khi bằng phương pháp phi khoa học người ta lại tìm ra phát kiến mới có giá trị khoa học.
Tôi là người trọng khoa học, đọc sách của ông Trị tôi thấy cái giá trị
khoa học ẩn tàng bên trong nên mới dùng ngôn ngữ khoa học để chứng minh
những điều ông đã tái khám phá. Một mục đích của tôi là tạo cơ hội cho
những người trong giới khoa học nhận ra rằng Tử Vi hoàn toàn phù hợp với
khoa học hiện đại rồi tham dự vào việc nghiên cứu, giúp Tử Vi mau chóng
tiến bộ như mọi ngành khoa học khác thay vì cứ lẩn quẩn như ngàn năm
qua trong trạng thái của một khoa học phôi thai.
Nếu việc khoa học hóa những tái khám phá của ông Trị về chính tinh và tứ
Hóa có tính gượng ép thì người có tội là tôi, không phải ông Trị, vì
-như đã nói- ông Trị không dùng ngôn ngữ khoa học mà chỉ dùng ngôn ngữ
của dịch học và thuyết âm dương ngũ hành thôi.
Cuối cùng, một điểm có tính học thuật:
Một vị viết trên vietlyso.com rằng khi can Giáp xuất hiện, cùng sát na
đó các can Ất, Bính, Đinh v.v… cũng có mặt trong bài toán Tử Vi; rồi dựa
vào đó mà phê bình, rằng thuyết của ông Trị không thỏa lý này.
Tôi e vị này đã hiểu lầm thuyết của ông Trị, vì sự kiện “mọi can cùng
hiện” cũng chính là giả sử mà ông Trị sử dụng, không những thế nó chính
là một trong những mấu chốt quan trọng nhất (theo tôi thì nó chính là
điểm đột phá) giúp ông định được cách an tứ Hóa.
Không phải mọi người đều đồng ý rằng Tử Vi nên được khoa học hóa, nên thiết tưởng cần trả lời tại sao nên khoa học hóa Tử Vi.
Khởi từ nhận xét:
Ở một thời xa xưa Tử Vi chỉ có người dạy và người học. Nhưng trong vòng
trăm năm trở lại đây, có lẽ thời gian thẩm thấu đã đủ, người ta bắt đầu
đặt ra nhiều vấn đề với khoa này. Đặt vấn đề với Tử Vi rất dễ dàng, vì
xưa nay cách học Tử Vi nặng về khẩu quyết mà thiếu nguyên lý, nên có thể
nói rằng bất cứ đề tài nào liên hệ đến Tử Vi cũng có dẫy đầy câu hỏi.
Có đặt câu hỏi thì tất nhiên sẽ có trả lời câu hỏi. Ở Việt Nam trong hạ
bán thế kỷ 20 có ông Thiên Lương viết hai tập Tử Vi nghiệm lý, xiển
dương một số cách luận có phần khác truyền thống, trong đó quan trọng
nhất là cái lý của vòng Thái Tuế. Ở Đài Loan, HK từ cuối thập niên 1970
cho đến cuối thập niên 1990 có thể gọi là một giai đoạn trăm hoa đua nở
của khoa Tử Vi. Đột ngột số sách Tử Vi biến từ vài quyển thành mấy trăm
quyển, kỳ nhân dị sĩ xuất hiện khắp nơi, trong đó người bảo là có bí mật
gia truyền ngàn năm muốn lộ ra ngoài, người bảo mình nhờ thiền mà ngộ
ra Tử Vi, nói chung đều xưng cách của mình là “đại đột phá”, “vô tiền
khoáng hậu” v.v…
NÓI THÊM VỀ LÝ THIÊN VĂN CỦA CẶP ÂM DƯƠNG (theo ông Tạ Phồn Trị)
HỎI: Ông dùng điều kiện thiên văn “giữ cho hoàn cảnh của vũ trụ không
đổi” để định hai sao Âm Dương. Điều kiện này có thực cần thiết không?
Thiết tưởng cho cặp Âm Dương ứng với mặt trăng, mặt trời hoặc nói Thái
Âm, Thái Dương đại biểu hai yếu tố âm dương cũng cho kết quả tương tự.
ĐÁP: Trước hết cần nói rõ rằng điều kiện thiên văn “để hoàn cảnh của vũ
trụ không đổi” được xử dụng trong việc định hai sao Âm Dương là do ông
Tạ Phồn Trị tái khám phá ra, không phải tôi. Tôi chỉ là người ghi lại sự
kiện này. Cần nói rõ thế vì tôi nghĩ rằng đây là một phát hiện hết sức
quan trọng, ví như chiếc chìa khóa chính; không có nó không thể mở cánh
cửa đã đóng kín nghìn năm của khoa tử vi. Cái công của người tái khám
phá (tức ông Tạ Phồn Trị) vì thế phải được ghi nhận rõ ràng.
Đã biết kết quả rồi thì khó cảm nhận tại sao -từ căn bản khoa học- tìm
ra cái lý nằm sau cách an hai sao Âm Dương lại là một tái khám phá to
lớn, nên tôi xin lùi một bước để phân tích các thuyết -liên hệ đến cặp
Âm Dương- đã có mặt trước thuyết của ông Trị.
Có hai thuyết chính.
Thuyết thông thường (mà ta sẽ gọi là thuyết A) là Âm biểu tượng mặt trăng, Dương biểu tượng mặt trời.
Thuyết A có ứng hợp với thực tế, nhưng không ứng hợp hoàn toàn vì tử vi
có một cách lớn là Âm Dương Sửu Mùi, thường được gọi là “Nhật Nguyệt
tranh huy”, nghĩa là mặt trời mặt trăng dành ánh sáng. Vấn đề là giờ Mùi
(tùy trường phái mà ứng với thời gian 1-3 hoặc 2-4 giờ chiều) trời sáng
trưng thì có lý do gì để mặt trăng có uy lực mà đòi “dành sáng” mới mặt
trời? Muốn có “Nhật Nguyệt tranh huy” vào buổi chiều thì tất phải là
lúc hoàng hôn; tức là sớm lắm cũng phải từ giờ Thân trở đi.
Ngoài ra, từ kinh nghiệm tích lũy lâu đời, người ta biết tính miếu hãm
của cặp Âm Dương ngoài yếu tố thời (Dần đến Ngọ là thời của Dương, Thân
đến Tý là thời của Âm, Sửu Mùi là thời tranh tối tranh sáng) còn có yếu
tố vị (Dương an cung dương đắc vị, an cung âm thất vị; Âm ngược lại).
Hiển nhiên mặt trời mặt trăng không phản ảnh yếu tố “vị” khá lạ lùng
này.
Kế tiếp là một thuyết khác mà ta sẽ gọi là thuyết B. Thuyết B hoàn toàn
đặt trên lý luận, cho rằng cặp Âm Dương chỉ giản dị là đại biểu của hai
yếu tố âm và dương, tức là hai đơn vị nền tảng của thuyết Âm Dương.
Ưu điểm lớn của thuyết B là nó giải quyết được cả hai vấn nạn của thuyết A:
-Vấn nạn thời: Dần đến Ngọ ứng với hai hành mộc hỏa đều ứng với phát
triển nên là khu vực dương, Thân đến Tý ứng với hai hành kim thủy ứng
với sự dừng bước, thoái hóa nên là khu vực âm; nên Thái Dương đắc thời
từ Dần đến Ngọ, thất thời từ Thân đến Tý; Thái Âm ngược lại. Thế là yếu
tố thời được thỏa.
-Vấn nạn vị: Từ cách thành lập địa bàn ta đã phân 12 cung thành 6 âm, 6
dương,nên cho Thái Âm ứng âm, Thái Dương ứng dương thì yếu tố vị đương
nhiên được thỏa.
Đồng thời, thuyết B dẫn đến một kết quả tự nhiên là ở hai cung Sửu Mùi
cả hai sao Thái Âm, Thái Dương đều không đắc thời hoặc thất thời, nên
ứng với cảnh tranh tối tranh sáng của hai yếu tố âm dương. Nói cách
khác, trục Sửu Mùi là trục đối xứng của hai yếu tố Âm Dương. Với kết quả
này, ta có quyền đòi hỏi rằng cặp Âm Dương phải vĩnh viễn đối xứng qua
trục Sửu Mùi.
Có thể thấy rằng thuyết B đạt rất gần đến cái lý tối hậu nằm sau cách an
cặp Âm Dương, thế nhưng nó có một thiếu sót trầm trọng là ngoài lý âm
dương ra, ta không biết các vị trí của hai sao này ứng với các yếu tố
nào khác của địa bàn. Lấy thí dụ trường hợp Thái Dương cư Tý, tất Thái
Âm cư Dần. Thái Âm ở Dần đại biểu gì? Khởi đầu của hành mộc? Hoặc giả
phối hợp với thuyết A để nói Âm Dương cùng ứng với giờ thì bảo Thái
Dương cư Ngọ cực tốt hợp lý rồi, nhưng cùng lúc ấy Thái Âm cư Thân có ý
nghĩa gì? Giờ Thân chưa phải là lúc mặt trời lặn sao có thể nói Thái Âm
tốt được?
Cái độc đáo của lý tương ứng Thái Âm = Tháng, Thái Dương = Giờ mà ông Tạ
Phồn Trị tái khám phá ra là nó vừa ứng với thiên văn (hai sao Âm Dương
phối hợp để giữ hoàn cảnh của vũ trụ y hệt như thời điểm khai sinh của
địa cầu là -tiết lập xuân- tháng Giêng giờ Tý), vừa tổng hợp được các
tính chất chính của hai thuyết A và B kể trên. Tức là nó giúp cái lý của
cặp Âm Dương trở thành đầy đủ và nhất quán.
Theo ông Trị tiết lộ thì nhờ ngồi thiền mà cuối cùng ông ngộ ra cái lý
của cặp Âm Dương sau 20 năm liên tục suy nghĩ và bế tắc. Đã chuyên tâm
nghiên cứu mà phải mất 20 năm suy nghĩ, lại thêm đốn ngộ mới suy ra được
một điều thì điều ấy chắc không thể tầm thường.
Vài dòng ghi nhận.
Chữ “âm dương” mà tôi nói đến trong “âm
dương là chính ngũ hành là phụ” ám chỉ toàn bộ “thuyết âm dương” không
chỉ là cách phân loại âm dương đặc thù (như Thiên Đồng là dương thủy).
Khi xét toàn bộ thuyết âm dương thì sự phân phối của các sao trên địa
bàn đã có hàm chứa tính âm dương rồi. Cơ sở lý luận chính của tôi ở đó.
Xét các tổ hợp khác nhau với điều kiện là hoàn cảnh của (hai ông tướng
vùng) Âm Dương có ảnh hưởng quan trọng đến các sao tĩnh (rồi thêm ngũ
hành vào sau cùng nếu cần thiết) thì sẽ thấy tại sao Thiên Đồng hãm ở
Ngọ, Thìn.
GIỚI HẠN VÀ TRIỂN VỌNG CỦA VIỆC KHOA HỌC HÓA TỬ VI
Khi muốn khoa học hóa bất cứ một ngành gì
đã hiện hữu, ta phải lùi thật nhiều bước để trở về một vị trí nào đó mà
tập thể những người tương đối có trí tuệ và kiến thức có thể đồng thuận
trên nền tảng của một hệ tư duy có lớp lang gọi là “lô gích” rồi từ đó
mới lại bước đi, cũng theo các quy luật của lô gích.
Tại sao lại đặt vấn đề lô gích? Thưa vì có nhiều chuyện trên đời này
không thể nào dùng lô gích mà suy được (như thánh nữ đồng trinh Maria,
như hiện tượng đốn ngộ, như hiện tượng đột ngột khỏi hẳn ung thư nhờ
kiên trì cầu nguyện phật, chúa v.v…); đó là những chuyện nằm ngoài lô
gích. Những chuyện nằm ngoài lô gích không ở trong phạm trù của khoa học
nên không thể dùng tiêu chuẩn của khoa học mà luận xét. Cần nói rõ thế,
vì nhiều người tự xưng là khoa học gia cứ dùng tiêu chuẩn khoa học để
lên án những hiện tượng nằm ngoài lô gích mà không biết rằng khi làm thế
là chính mình đã đi ngược lại đòi hỏi của lô gích.
Bởi vậy, bước đầu của người nghiên cứu Tử Vi bằng khoa học là phải nhận
biết công trình của mình có giới hạn riêng của nó, dù đạt thành công đến
tột đỉnh cũng không thể nào vượt qua giới hạn ấy được. Phải biết thế để
khỏi cạnh tranh vô lý với những kỳ nhân nằm ngoài lô gích, như chỉ nhìn
lá số Tử Vi rồi nói vanh vách cuộc đời phải như thế nào, và đều đúng cả
(có thật, cá nhân tôi đã gặp qua). Thí dụ này quan trọng, vì dùng lô
gích bình thường sẽ phải dựa vào thực tế là chỉ có 500 ngàn lá số để kết
luận rằng không thể nào nhìn lá số mà đoán đời người ta vanh vách được.
Để khỏi loãng đề tài hiện tại tôi sẽ giải thích hiện tượng kỳ nhân mệnh
lý sau (và dĩ nhiên lời giải thích ấy không thể nào hoàn toàn lô gích).
Nhưng tại sao lại bỏ quá nhiều công lao để nghiên cứu Tử Vi bằng phương
pháp khoa học để rồi khi xem Tử Vi vẫn thua xa các kỳ nhân? Thưa vì
người học Tử Vi thì đông mà kỳ nhân cực hiếm. Thực trạng là vì thiếu
phương pháp khoa học, hầu hết giới học tử vi (kể cả giới nghiên cứu tử
vi) đều ở trạng thái mò mẫm, như người trong hầm tối chẳng có lối ra.
Trạng thái mò mẫm đó tạo thành cảnh vàng thau lẫn lộn, chẳng biết đâu là
đúng là sai, nên người học Tử Vi sau khi đạt một mức cơ bản nào đó rồi
thì tiến hay lùi thật khó mà xác định, tức là bị kẹt trong một cái vòng
lẩn quẩn, không có con đường rõ ràng nào để tiến về phía trước. Giả như
việc khảo sát Tử Vi bằng khoa học thành công, thì mặc dù không thể đào
luyện kỳ nhân, chúng ta cũng thành công trong việc giúp người học Tử Vi
liên tục tiến về phía trước thay vì dậm chân tại chỗ hoặc chạy trong cái
vòng lẩn quẩn.
Đó là phần trình bày về giới hạn và triển vọng của phương pháp khoa học
khi áp dụng vào Tử Vi. Kế tiếp tôi xin luận những điều kiện mà các bước
đầu của khoa Tử Vi phải thỏa khi ta khảo sát nó bằng phương pháp khoa
học.
(còn tiếp)
TẠI SAO TÔI BÁC BỎ THUYẾT THIÊN VĂN CỦA CẶP TỬ PHỦ?
HỎI: Về cặp Tử Phủ ông bảo thuyết của ông
Tạ Phồn Trị “quá huyền hoặc” và ông đề xướng thuyết của riêng ông.
Thuyết này của ông không nói gì đến tính thiên văn của Tử Phủ, nhất là
không nhắc đến chòm sao bắc đẩu, vốn được nhiều nhà nghiên cứu cho là
thực thể thiên văn tương ứng của sao Tử Vi. Vậy có phải là thiếu sót
chăng?
ĐÁP: Tôi có đọc thấy trên vài mạng mệnh lý khá nhiều lời phê bình, cho
rằng tôi đã thiếu sót, sai lầm trầm trọng vì không nhận ra rằng 14 chính
tinh đều có gốc ở thiên văn. Có người dựa trên sự kiện rằng tôi hay
viện dẫn sách ông Trị mà kết luận rằng đây là điểm thiếu sót, sai lầm
của ông Trị.
Để làm sáng tỏ vấn đề, tôi xin thưa ngay rằng ông Trị không hề đi ngược
lại truyền thống thiên văn của các nhà nghiên cứu cũ. Người đi ngược
truyền thống là tôi, và từ cái nhìn “ngược truyền thống” -nhưng dựa trên
khoa học- tôi thấy lập luận của ông Trị về cặp Tử Phủ là huyền hoặc.
Sau đây tôi xin tóm lược lập luận của ông Trị rồi trình bày lý do tại
sao tôi không chấp nhận nó.
Ta đã biết vào lúc khai sinh của địa bàn, tức tháng Giêng giờ Tý thì Thiên Phủ ở Sửu, Tử Vi ở Mão.
Ông Trị nhận xét rằng ở thời điểm này nhìn lên phương bắc tất thấy sao
đuôi của chòm Bắc Đẩu ở chính đông, ứng với phương Mão trên địa bàn,
cùng lúc đó sao Long Đầu ứng với cung Sửu.
Vì trục trái đất gần khít với sao Bắc Cực (tức sao Alpha–UMi), một quan
sát viên trên mặt đất (ở bắc bán cầu) sẽ thấy cả hai sao này cứ mỗi giờ
âm lịch chuyển 30 độ theo chiều nghịch.
Chiều nghịch quan sát thấy trên trời bắc chính là chiều thuận trên địa
bàn, mỗi 30 độ ứng với một cung, nên nếu đuôi chòm Bắc Đẩu đã ở Mão vào
giờ Tý thì sẽ ở Thìn vào giờ Sửu, ở Tỵ giờ Dần v.v… tức là hoàn toàn phù
hợp với vận trình sao Tử Vi.
Tương tự, cho ngày và giờ cố định rồi thì cứ mỗi tháng hai sao Phá Quân
và Long Đầu cũng chuyển 30 độ theo chiều nghịch nên tiết lập xuân (tháng
Giêng) sao Long Đầu ở cung Sửu tất tiết lập hạ (tháng 4) ở cung Thìn,
lập thu (tháng 7) ở Mùi, lập đông (tháng 10) ở Tuất; tức là hoàn toàn
phù hợp với vận trình của sao Thiên Phủ.
Cho nên, dùng hoàn cảnh của tiết lập xuân làm điều kiện ban đầu (initial
conditions) và “giờ tháng nghịch chiều” làm cái lý vận hành để giữ hoàn
cảnh của vũ trụ không đổi, ông Trị kết luận Tử Vi ứng với đuôi của chòm
Bắc Đẩu thất tinh, Thiên Phủ ứng với sao Long Đầu. Đó là cái lý hình
thành của cặp Tử Phủ theo ông Tạ Phồn Trị.
Mười chính tinh còn lại thì ông Trị cho rằng không dính líu gì đến các
sao trên trời. Tôi đã thấy một số người suy diễn rộng hơn, cho rằng mỗi
một chính tinh đều phản ảnh vận hành của một sao có thật trên trời.
Nhưng dù chỉ cho cặp Tử Phủ ứng với sao thật như ông Trị hoặc cho hết
thảy 14 chính tinh ứng với sao thật như một số vị khác, tựu chung thì
yếu tố để liên kết vẫn là tương ứng phương vị trong một hoàn cảnh đặc
thù nào đó. Chẳng hạn như trường hợp ông Trị thì hoàn cảnh đặc thù ấy là
giờ Tý ngày đầu của tiết lập xuân (ứng với Tử Vi ở Mão, Thiên Phủ ở
Sửu).
Cần ghi nhận rằng ông Tạ Phồn Trị chẳng phải là người đầu tiên cho rằng
các sao trong khoa Tử Vi ứng với sao thật trên trời. Thí dụ cận đại có
“Tử vi đẩu số giảng nghĩa”, một tài liệu Tử Vi nổi tiếng do tiền bối Lục
Bân Triệu soạn trong thập niên 1950 cho lớp Tử Vi của ông gần đây được
nhiều nhà bình chú. Trong tài liệu này, phần an sao có viết khá dài về
liên hệ giữa Tử Vi và thiên văn. Đoạn đầu như sau:
“Tử Vi dựa vào sự vận chuyển biến hóa của chòm bắc đẩu, chòm nam đẩu,
các sao trong Tử Vi đàn, và các tạp tinh để tượng trưng cát hung họa
phúc của đời người. Nam đẩu, bắc đẩu, Tử Vi đàn nguyên là những sao quan
trọng nhất và được biết tới nhiều nhất trong thiên văn cận đại…”
Tôi xin phép chỉ dịch đến đấy, bởi thiết nghĩ bấy nhiêu đủ cho ta biết
thuyết cho rằng Tử Vi liên hệ mật thiết với bắc đẩu, nam đẩu v.v… không
phải là mới lạ, mà đã lưu hành tối thiểu nửa thế kỷ rồi. Và rất dễ hiểu,
vì tên gọi của 14 chính tinh và một số phụ tinh Tả Hữu Xương Khúc v.v…
đều là tên sao có thật; nếu xưa này người ta chưa từng nối kết các sao
trong Tử Vi với sao thật trên trời mới là chuyện lạ.
Bây giờ tôi xin trình bày lý do tại sao tôi cho rằng loại lập luận này
là huyền hoặc. Tôi sẽ chỉ phê bình lập luận của ông Trị, nhưng lý lẽ này
cũng áp dụng cho các lập luận tương tự.
Tôi sẽ nhìn nhận ngay rằng thuyết của ông Trị về cặp Tử Phủ (và các
thuyết thiên văn tương tự khác) có tính hấp dẫn rất mạnh, bởi nó khơi
động tính tò mò của con người về những liên hệ có thể có giữa con người
và các vì sao trên trời. Chính tôi cũng bị loại thuyết này hấp dẫn,
nhưng tiêu chuẩn khoa học bắt buộc tôi phải đứng về phe phản đối vì có
hai vấn đề sau đây.
Vấn đề đầu tiên là: Trên trời có muôn vì sao cùng ứng hợp phương vị với
Tử Vi, Thiên Phủ; tại sao chọn hai sao Phá Quân và Long Đầu làm sao
tương ứng? Vì hai sao này tương đối sáng chăng? Nhưng nếu độ sáng là
tiêu chuẩn thì hai sao này làm sao sáng bằng mặt trăng, mặt trời là biểu
tượng của Thái Âm Thái Dương? Vậy thì lấy lý nào để nói Tử Vi là sao
vua, ngự trị các chính tinh khác kể cả cặp Âm Dương?
Ngắn gọn, cách chọn sao của ông Trị không thỏa đòi hỏi độc nhất; một đòi
hỏi hết sức quan trọng của khoa học. Trong thập niên 1980 đã có một
danh gia mệnh lý Đài Loan là ông Phương Vô Kỵ cố gắng giải quyết vấn nạn
này. Ông Vô Kỵ cho rằng hai chòm Bắc Đẩu và Nam Đẩu (tức chòm sao Nhân
Mã Sagittarius) có từ trường rất mạnh nên chúng đặc biệt hơn các chòm
sao khác. Nhưng như thế lại có vấn đề, vì từ lực giảm rất nhanh với
khoảng cách. Nếu lấy từ lực làm tiêu chuẩn thì lực áp đảo phải là các
thiên thể trong thái dương hệ; và nếu vậy thì một lần nữa ta lại gặp bế
tắc là tại sao Tử Vi lại ứng với uy quyền cao hơn cặp Âm Dương, trong
khi mặt trời (ứng với Thái Dương) hiển nhiên là thiên thể quan trọng
nhất của thái dương hệ (chú 6). Mặt trăng có kém thế hơn mặt trời, nhưng
nếu hỏi một em bé (chưa có suy nghĩ thiên vị) mặt trăng hay chùm bắc
đẩu quan trọng hơn, tôi nghĩ câu trả lời hiển nhiên sẽ là mặt trăng.
Vấn đề thứ hai trình bày kế tiếp đây tôi nghĩ còn nghiêm trọng hơn nữa.
Các độc giả đã đọc qua sách thiên văn hẳn biết rằng trục của trái đất
(tức trục tưởng tượng xuyên qua bắc cực và nam cực) không vĩnh viễn song
song với một phương cố định trong vũ trụ, mà liên tục xoay chuyển như
trục của một con quay (tức con vụ, con bông vụ, con cù) lúc sắp ngã vậy.
Nếu ta vẽ trên tinh cầu (một mặt cầu tưởng tượng ở trời cao) quỹ tích
của các điểm mà trục trái đất vạch thành thì sẽ được một vòng tròn. Phải
mất khoảng 26 ngàn năm trục trái đất mới đi hết vòng tròn này để trở
lại vị trí ban đầu. Thời gian 26 ngàn năm đối với một đời người là rất
dài, nhưng xét trên chiều kích của khoa học thì cũng như một tích tắc mà
thôi. Và khi trục trái đất trên trời cao dời đi đủ xa thì đuôi chòm Bắc
Đẩu sẽ không ở phương đông vào giờ Tý ngày đầu của tiết lập xuân nữa!
Khi ấy ta sẽ làm gì? Phải chăng là cho một sao khác ở lân cận đâu đó ứng
với Tử Vi để tái lập sự ứng hợp đã mất đi giữa thời gian và vị trí? Sự
điều chỉnh này, nếu có, sẽ dựa trên lý nào? Làm sao thiết lập tính độc
nhất của nó?
Sự thật là chòm Bắc Đẩu hiện đang lìa xa dần vòng cung bắc cực. Chính
ông Phương Vô Kỵ (đã dẫn ở trên) có nhìn nhận trong sách của ông rằng 8
nghìn năm nữa chòm Bắc Đẩu sẽ không còn ở phía trên xích đạo; lúc ấy
thật khó mà cho rằng nó có vị trí thiên văn đặc biệt hơn các chòm sao
khác; bảo là nó ứng với sao cao quý nhất của 14 chính tinh, tức sao Tử
Vi, thì lại càng gượng ép, nếu không muốn nói là hàm hồ.
Vì những vấn nạn đã nêu trên, mọi thuyết cho rằng mỗi một chính tinh của
môn Tử Vi có một sao tương ứng trên trời sẽ phải chấp nhận thêm tối
thiểu một điều kiện là khoa Tử Vi chỉ có giá trị khi một số điều kiện
đặc thù về phương vị của các sao này được thỏa. Như vậy, vì trục quay
trái đất liên tục di chuyển, trong mỗi chu kỳ 26000 năm khoa tử vi chỉ
có giá trị trong một khoảng thời gian X nào đó mà thôi.
Tức là giá trị khoa học của khoa Tử Vi có tính tuần hoàn; có khi nó sai,
có khi nó đúng?! Thật khó tưởng tượng là giá trị của một thuyết khoa
học lại có đặc tính kỳ cục này.
Có người sẽ biện luận đời vốn không phải là cõi thập toàn nên dĩ nhiên
không có thuyết tuyệt đối hoàn chỉnh; và nếu coi cái “kỳ cục” kể trên là
một phần của tính không hoàn chỉnh của Tử Vi thì chẳng có vấn đề gì.
Tôi xin phép hoàn toàn bất đồng. Bởi mặc dù đời này không có sự hoàn
chỉnh tuyệt đối, các thuyết vẫn có độ hoàn chỉnh cao thấp khác nhau. Nếu
phải lựa một trong hai thuyết, ta không thể nói vì cả hai đều không
hoàn chỉnh nên tha hồ lựa chọn theo ý thích, mà phải xử dụng những tiêu
chuẩn khoa học cập nhật nhất để loại thuyết kém hoàn chỉnh và giữ thuyết
hoàn chỉnh hơn.
Trở lại vấn đề, tôi xin thưa rằng cái “kỳ cục” kể trên có thể tránh được
nếu ta bỏ hẳn việc ép các sao có thật trên trời vào 14 chính tinh. (Chú
thích tại chỗ: Mặt trời và mặt trăng là ngoại lệ vì liên hệ với trái
đất rất mật thiết và có tính vĩnh hằng, nên ứng với Thái Dương và Thái
Âm là hợp lý).
Vì thế tôi lập luận cặp Tử Phủ được đặt ra để phản ảnh những thay đổi
mùa màng của địa cầu, vì cặp Âm Dương đã không làm được chuyện ấy. Xét
rốt ráo thì cái lý mà tôi đưa ra cho cặp Tử Phủ vẫn là lý thiên văn,
nhưng dựa trên kết quả hiển hiện (mùa màng) nên thỏa điều kiện độc nhất
của khoa học, lại không lệ thuộc vào vị trí trục quay của trái đất nên
không bị mối nguy là chắc chắn trở thành sai lạc trong vài ngàn năm nữa.
Tóm lại ta hiện có hai thuyết đều có tính thiên văn. Một thuyết thì lý
tương ứng không thỏa điều kiện độc nhất, lại chắc chắn sẽ trở thành sai
lầm trong vài ngàn năm nữa và vì thế khó biết có đúng trong hiện tại hay
không; một thuyết hiện đã tương ứng với thực tế và sẽ tiếp tục tương
ứng với thực tế ngày nào trái đất còn tự xoay quanh nó và quanh mặt
trời.
Xét từ quan điểm khoa học ta phải chọn thuyết nào? Câu trả lời xin dành cho quý vị.
MUỐN KHOA HỌC HÓA MỆNH LÝ PHẢI LÀM GÌ
Sau đây là một bài viết của tôi cho các ngành mệnh lý nói chung, dĩ nhiên áp dụng cho Tử Vi.
Tính ưu việt của khoa học và thực trạng lạc hậu của mệnh lý
Trong nhiều bài rải rác khắp nơi tôi đã đưa lập luận để chứng minh rằng
mệnh lý hội đủ các đặc tính của một ngành khoa học, nhưng nhận ra tính
khoa học tiềm ẩn trong mệnh lý không làm cho mệnh lý biến ngay thành một
phần của tri thức khoa học mà chỉ là bước đầu trong công cuộc khoa học
hóa mệnh lý.
Đi từ thực trạng huyền học của mệnh lý đến cái đích khoa học là một công
cuộc cải cách; muốn cải cách một hoàn cảnh đã tồn tại lâu đời ta phải
bắt đầu bằng cách nhận diện rạch ròi những khó khăn trở ngại, rồi suy ra
phương thức khắc phục. Điểm bắt đầu hợp lý và giản dị nhất là đi trở
lùi về lịch sử để làm việc ôn cố tri tân.
Khởi từ lúc văn minh loài người hình thành, đã có một thời gian rất dài
mệnh lý được coi là một phần của tri thức chính thống. Ở Á đông ngày
xưa, kiến thức được quy về 4 chữ “nho y lý số”, và tiêu chuẩn trí thức
cao cấp nhất là trên thông thiên văn, dưới đạt địa lý, giữa hiểu nhân sự
(“thượng thông thiên văn, hạ đạt địa lý, trung tri nhân sự”); đều bao
hàm mệnh lý. Ở tây phương trước đây, các nhà thiên văn học cũng thường
là chiêm tinh gia; như ông Kepler nổi tiếng với ba định luật diễn tả quỹ
đạo và vận tốc của các hành tinh quanh mặt trời là một điển hình.
Hạ bán thế kỷ 17, khi khoa học bắt đầu chiếm ưu thế trong các hệ tri
thức của nhân loại nhờ vật lý Newton thì cũng là lúc các khoa nghiên
khảo mệnh lý (gọi chung là mệnh lý học) bắt đầu bị đẩy lùi vào bóng tối,
không còn được coi là kiến thức chính thống nữa. Hơn ba thế kỷ đã trôi
qua, khi bài này được viết, tình hình chung đại khái vẫn thế. Nếu hỏi
giới khoa học nghĩ gì về mệnh lý, e rằng câu trả lời phổ thông nhất là
“mê tín dị đoan”, và câu trả lời lịch sự nhất vẫn mang nặng tính chất hồ
nghi.
Tại sao mệnh lý bị coi là mê tín, tại sao giá trị của mệnh lý bị giới
khoa học hồ nghi? Xin thưa đây chỉ giản dị là một trường hợp “cạnh tranh
thích ứng sinh tồn” giữa hai đối thủ là khoa học và huyền học. Với
phương pháp và thủ tục hiệu quả của riêng nó, khoa học đã đạt những
thành tựu xuất chúng. Các bộ môn huyền học (bao gồm mệnh lý) vì không
điều chỉnh để thích nghi với hoàn cảnh nên lâm vào cảnh lạc hậu. Giữa sự
ưu việt và sự lạc hậu, người trí thức nên chọn cái nào? Thiết tưởng câu
trả lời quá hiển nhiên; thế nên đa số giới trí thức chọn khoa học. Mà
đã chọn khoa học thì nhẹ cũng phải hồ nghi giá trị của mệnh lý, nặng tất
coi mệnh lý là nhảm nhí.
Nhưng chi tiết hơn thì những lý do nào khiến mệnh lý lạc hậu đến nỗi
mang tiếng “mê tín dị đoan”? Theo thiển ý, có 4 lý do chính:
1. Khuynh hướng thần thánh hóa cổ nhân.
2. Phương pháp luận lỗi thời (thiếu khả năng thích nghi).
3. Tự cho mệnh lý giá trị quá cao.
4. Thiếu khả năng và thủ tục truyền đạt kiến thức.
Sau đây xin trình bày từng lý do một và đề nghị phương thức giải quyết.
Đề nghị 1: Bỏ khuynh hướng thần thánh hóa cổ nhân
Khi nghiên cứu mệnh lý, ta hay gặp hai chữ “thánh nhân”; như Chu Văn
Vương, Chu Công, Khổng Tử là “thánh nhân” của dịch lý; các ông Thiệu
Khang Tiết, Dã Hạc là “thánh nhân” của bói dịch v.v… “Thánh nhân” đây
được hiểu là “đỉnh cao trí tuệ”. Thánh nhân “phán” điều gì ta phải coi
là điều ấy đúng. Dám đặt câu hỏi về một điều thánh nhân đã phán là hành
động phạm thượng không thể tha thứ được. Trọng thánh nhân được coi là
một đức tính phải có của người học mệnh lý, không chỉ vì “tiên học lễ
hậu học văn” mà còn vì niềm tin rằng đây là điều kiện để có cảm ứng tốt
đẹp giúp cho sự tiến bộ trên đường học tập.
Khác với mệnh lý, khoa học không có một thánh nhân nào cả. Xét hai khoa
học gia đứng hàng đầu lịch sử là Newton và Einstein là rõ. Ông Newton
tìm ra quy luật “vạn vật hấp dẫn” giải thích được đủ loại chuyển động,
từ động tác rơi của một chiếc lá vàng nhỏ bé đến vận trình của các thiên
thể vĩ đại; phát kiến ấy tự cổ chí kim dễ ai sánh kịp? Nhưng ông
Einstein thay vì coi ông Newton là thánh nhân lại hồ nghi là thuyết của
ông (Newton) còn thiếu sót. Thái độ “phạm thượng” này không những chẳng
làm hại ông Einstein hoặc khiến khoa học ngừng trệ, mà dẫn đến hai
thuyết Biệt Tương Đối và Tổng Tương Đối (Special Relativity and General
Relativity).
Nhưng đó chưa phải là đoạn kết của câu chuyện. Trong thập niên 1920’s,
khi ông Einstein đã đạt vị trí cao nhất trong giới khoa học, nhân loại
lại chứng kiến một cuộc cách mạng mới, tức cuộc cách mạng của vật lý
lượng tử. Lịch sử khoa học ghi rõ từ năm 1927 trở đi, người phản đối vật
lý lượng tử dữ dội nhất chính là ông Einstein. Nhưng nhờ sự lãnh đạo
của Neils Bohr, phái lượng tử đã thành công trong việc xiển dương những
lý thuyết của họ, với kết quả (ngoài ý muốn) là ông Einstein bị đẩy từ
thế tiền phong vào vị trí lạc hậu.
Giả như ông Einstein coi ông Newton là thánh nhân thì có lẽ đến ngày hôm
nay nhân loại vẫn chẳng có hai thuyết Tương Đối, và chúng ta vẫn nhai
lại những gì ông Newton khám phá ra hơn 300 năm trước. Giả như Neils
Bohr và những người tin tưởng ông coi Einstein là thánh nhân thì vật lý
lượng tử có lẽ đã không thể thành hình rõ nét để dẫn đến cuộc cách mạng
điện tử, giúp máy điện toán trở thành phổ thông rồi kích khởi cuộc cách
mạng truyền thông của ngày hôm nay.
Các dữ kiện có thật trăm phần trăm trên đây là minh chứng hùng hồn rằng
nhiều bước tiến của khoa học xảy ra được chính vì khoa học không có
“thánh nhân”. Không có thánh nhân nên chẳng có ai để tôn thờ, nương dựa;
phải tự đốt đuốc mà đi thành thử chẳng thể lập lại cái cũ, như thế mới
có thể tìm ra con đường mới lạ cho riêng mình. Cái lý này phật Thích Ca
đã giải thích rõ trước khi ngài nhập niết bàn, trong thiền học có công
án “phùng phật sát phật” đại khái cũng là lý ấy, người viết chẳng dám
lạm bàn thêm nữa.
Nhìn trở lại trường hợp mệnh lý, khuynh hướng thần thánh hóa người xưa
đã vô hình chung biến thành một trở ngại vô cùng to lớn, khiến mệnh lý
ngày nay thay vì tiến bộ lại có phần thoái hóa so với ngày xưa. So với
văn minh khoa học hiện đại, thực trạng của mệnh lý lại càng thảm hại,
nói là như đom đóm so với mặt trăng chẳng phải là quá đáng. Mà cũng dễ
hiểu. Thần thánh hóa người xưa thì thành tựu cao tột cũng không thể vượt
quá việc diễn giải những kiến thức cũ của họ thay vì phát triển những
tư duy mới. Không có tư duy mới thì dĩ nhiên không tiến bộ, mà mình
không tiến trong khi người ta tiến thì bảo sao không bị tụt lại, lẽo đẽo
sau lưng người ta?
Thế nên (mặc dù có thể bị lên án “phản truyền thống”) người viết cường
điệu rằng đòi hỏi đầu tiên trong công cuộc khoa học hóa mệnh lý là chấm
dứt thói quen thần thánh hóa người xưa. Dĩ nhiên, bởi mọi cái tồn tại
lâu đời đều phải có một giá trị nào đó, ta phải biết quý trọng và chịu
học hỏi, nghiền ngẫm những gì được người xưa truyền lại. Nhưng đồng thời
ta phải giữ thái độ hồ nghi, luôn luôn đặt câu hỏi về giá trị của những
gì người xưa để lại cho ta bởi dù siêu việt bao nhiêu thì người xưa vẫn
là con người, tức là họ có thể phạm sai lầm.
Đề nghị 2: Khoa học hóa phương pháp luận của mệnh lý
Một lý do khiến khoa học vượt thắng nhiều hệ tri thức khác (kể cả triết
học) là vì nó có một phương pháp đặc thù, nay được gọi là ‘phương pháp
khoa học’. Phương pháp khoa học đã được bàn nhiều trong các sách giáo
khoa, ở đây chỉ xin nêu ưu điểm chính của nó. Ưu điểm này có thể bao gồm
trong bốn chữ “khả năng đãi lọc”!
Để thấy tại sao “khả năng đãi lọc” là một ưu điểm lớn của khoa học hãy
xét trường hợp tiêu biểu là có 2 thuyết được đặt ra để giải thích cùng
một hiện tượng. Hiện tượng được giải thích dĩ nhiên phù hợp với cả hai
thuyết nên không thể dùng nó để đãi lọc xem thuyết nào sai. Gặp hoàn
cảnh này, thủ tục đương nhiên của khoa học là suy luận thêm một bước nữa
để ra hai kết quả có thể kiểm chứng được của thuyết [1] và thuyết [2]
mà ta sẽ gọi lần lượt là X’ và X’’. Ta biểu diễn hoàn cảnh này như sau:
[1] => X’
[2] => X’’
Kế đó thực hiện thí nghiệm kiểm chứng, nếu kết quả là X’ thì thuyết [1]
tồn tại, thuyết [2] bị đãi lọc (tức là bị bác bỏ); ngược lại nếu kết quả
là X’’ thì thuyết [2] tồn tại, thuyết [1] bị bác bỏ.
Hãy giả sử là X’ được chứng nghiệm, nhờ vậy thuyết [1] tồn tại, rồi sau
đó có người lập ra thuyết [3] và thuyết này cũng cho kết quả X’. Lúc ấy
người ta lại phải suy ra hai kết quả khác có thể kiểm chứng được:
[1] => Y’
[3] => Y’’’
rồi xét kết quả (Y’ hay là Y’’), dựa vào đó kết luận thuyết nào nên giữ, thuyết nào phải bỏ, cứ thế cứ thế…
Mà cũng không cần phải có nhiều thuyết cạnh tranh nhau thì diễn trình
đãi lọc nói trên mới xảy ra. Giả như ngày kia có khoa học gia suy được
rằng nếu thuyết [1] đúng thì nó phải cho kết quả Z’. Kiểm chứng được kết
quả Z’ thì thuyết [1] tiếp tục tồn tại. Kết quả phản lại Z’ người ta
buộc lòng phải kết luận rằng thuyết [1] còn khiếm khuyết (xem chú 1).
Với thủ tục đãi lọc này, các thuyết tồn tại trong khoa học không có tính
chất “chắc chắn đúng” mà chỉ có tính chất “tạm thời được coi là đúng”.
Sau nhiều cuộc chứng nghiệm, có một số thuyết bị bỏ hẳn để thay bằng
thuyết mới, nhưng cũng có một số thuyết được người đời sau bổ khuyết,
trở thành hoàn bị hơn và tiếp tục tồn tại với giá trị cao hơn lúc mới
được phát minh.
Có thể nói mà không sợ quá lời rằng thủ tục đãi lọc diễn tả ở trên chính là tác nhân dẫn đến sự tiến bộ liên tục của khoa học.
Quay lại mệnh lý, trên lý thuyết thì chuyện đãi lọc cũng có đấy, nhưng
ta chẳng thấy một thủ tục nào tạm gọi là hữu hiệu. Vấn đề này có thể
thấy rõ hơn qua một thí dụ có thật lấy từ khoa Tử Vi.
Giới nghiên cứu tử vi đều biết Tử Vi có hai cách khởi đại hạn. Cách thứ
nhất là khởi đại hạn ở mệnh. Giả như nam mệnh sinh năm dương (gọi là
“dương nam”) mệnh lại cư ở vị trí ứng với mộc tam cục; tất vận hạn của
mười năm từ 3 đến 12 tuổi ứng với cung an mệnh, sau đó cứ đi theo chiều
thuận mỗi cung ứng mười năm.
Cách thứ hai là khởi đại hạn ở huynh đệ hoặc phụ mẫu. Cũng dương nam,
mộc tam cục như trên thì đại hạn 3-12 tuổi ứng với cung phụ mẫu, rồi sau
có cũng thuận hành mỗi cung ứng với mười năm.
Hai cách khởi đại hạn này sai biệt nhau đúng mười năm. Mười năm là một
thời gian khá dài so với đời sống của con người nên chẳng phải là chuyện
nhỏ. Vậy thì ai đúng ai sai? Mặc dù trên thực tế cách thứ nhất có số
người theo đông đảo hơn hẳn cách thứ hai, câu trả lời hiện tại vẫn là
“ai giữ ý kiến người nấy”.
Có độc giả sẽ thắc mắc hỏi: “Tại sao lại ‘ai giữ ý kiến người nấy’? Tại
sao không làm một cuộc thí nghiệm để giải quyết vấn đề có vẻ tương đối
giản dị này?”
Loại câu hỏi này đã được đặt ra khá nhiều lần khi có các cuộc tranh luận
đúng sai giữa các thuyết mệnh lý khác nhau. Theo kinh nghiệm của người
viết, khi bị đặt câu hỏi thường thường hai phe chống đối nhau đều đồng ý
là sự khác biệt chỉ có thể giải quyết được bằng cách chứng nghiệm.
Nhưng khi vào chi tiết, chứng nghiệm như thế nào thì mọi sự đồng ý đều
chấm dứt.
Sở dĩ có sự bất đồng ý về phương pháp chứng nghiệm là vì giới mệnh lý và
giới khoa học có một khác biệt hết sức cơ bản. Trong khoa học, chứng
nghiệm là một công cuộc có phương pháp rõ rệt, với những quy luật được
phát triển và đãi lọc lâu đời; những phe chống đối nhau đều hiểu điều
đó. Ta có thể ví thủ tục chứng nghiệm khoa học như một môn thể thao có
luật chơi rõ rệt. Người thua dù không phục đối phương cũng vẫn bị trọng
tài chiếu theo các luật chơi đã định mà loại ra khỏi đấu trường. Mệnh lý
vì chưa từng đặt ra vấn đề đãi lọc một cách nghiêm chỉnh, nên chỉ bạ
đâu đãi lọc đấy theo tiêu chuẩn cá nhân tùy hứng mà thôi.
Mà đã gọi là cá nhân tùy hứng thì phải trở lại vấn đề “thánh nhân” đã
nói đến ở phần trên bài này. Muốn thực lòng chịu chứng nghiệm thì phải
dám có thái độ hồ nghi đối với những cái mình học của người xưa. Nên còn
giữ thái độ thần thánh hóa người xưa thì có chứng nghiệm chăng nữa cũng
chỉ là hình thức, bởi nếu kết quả chứng nghiệm không được như ý muốn
thì sẽ phải khống chế, biện hộ cho “thánh nhân”, vậy thì làm sao đãi lọc
cái sai được?
Cho là thoát được cửa ải “thánh nhân” (tức là chịu chấp nhận bác bỏ cái
sai, ngay trường hợp đó là cái do người xưa truyền lại) thì vẫn còn một
cửa ải nữa, lần này là kỹ thuật. Thủ tục đãi lọc của khoa học vốn chẳng
giản dị. Ngay cả các kỹ sư được huấn luyện 4 năm ở đại học, khi làm thí
nghiệm đãi lọc giả thuyết còn gặp nhiều lúng túng, nói gì đến giới mệnh
lý, tối thiểu trong hiện tại đa số thiên về nhân văn hơn kỹ thuật; làm
sao có thể tin là có khả năng để tiến hành thủ tục đãi lọc một cách đúng
đắn? (chú 2).
Giải thích như trên không phải là coi thường giới nghiên cứu mệnh lý, mà
là trình bày một thực trạng cần được điều chỉnh. Theo thiển ý, chỉ có
cách điều chỉnh duy nhất là học hỏi nghiêm chỉnh phương pháp đãi lọc của
khoa học, rồi tùy trường hợp mà áp dụng nó vào các ngành mệnh lý cho
phù hợp. Người viết hiểu rằng chuyện này chỉ có thể xảy ra khi mệnh lý
đã được chấp nhận là một khoa học, có lẽ phải vài mươi năm nữa.
Đề nghị 3: Đặt lại giá trị của mệnh lý
Trong làng mệnh lý có nhiều nhân vật, kể cả một số cao thủ, thật tâm cho
rằng mệnh lý có khả năng tuyệt đối. Như trường hợp khoa tử vi chẳng
hạn, một số không nhỏ người nghiên cứu cho rằng “cuộc đời được in trên
lá số”, tức là lá số nói tương lai ra sao thì sự thật phải diễn ra y hệt
như vậy; họ bảo nếu sự thật xảy ra khác với lời đoán là vì lấy lá số
sai hoặc vì ‘thầy’ tài nghệ còn kém mà thôi.
Sự thật là, có nhiều cặp sinh đôi cùng năm tháng ngày giờ sinh và phái
tính nên có cùng lá số tử vi mà đời sống khác nhau (thành tựu khác nhau,
lập gia đình khác năm, người đông con người ít con v.v…) Nhưng nếu đưa
bằng cớ này ra, thì ta thường được trả lời rằng các cặp sinh đôi phải
luận theo công thức khác.
Chuyện những người không có liên hệ máu mủ có đời sống khác nhau mặc dù
sinh cùng năm tháng ngày giờ cũng chẳng hiếm. Nếu ta đưa vấn đề này ra
thì thường được bảo rằng vì ông A vẫn ở nơi sinh quán, trong khi ông B
xuất ngoại nên đời sống dĩ nhiên phải khác v.v…
Tóm lược lại các luận điểm kể trên:
1. Lá số ra sao cuộc đời phải như vậy.
2. Sinh đôi cùng năm tháng ngày giờ và phái tính đời sống có thể khác.
3. Không liên hệ máu mủ, nhưng sinh cùng giờ cùng phái tính, hoàn cảnh khác nhau đời sống có thể khác.
Chỉ cần nhìn thoáng qua cũng thấy ngay là hai điểm 2 và 3 mâu thuẫn với
điểm 1. Vậy mà có khá nhiều người nghiên cứu tử vi, tài tử cũng như
chuyên nghiệp, tin cả 3 điểm; thế mới là kỳ.
Người viết cho rằng đây là một loại hiện tượng ‘lỗ hổng tâm lý’, tức tâm
lý thiếu lô gích về một mặt đặc thù nào đó. Mỗi lỗ hổng tâm lý thường
phải có một nguyên ủy sâu xa. Theo thiển ý, nguyên ủy sâu xa của hiện
tượng lỗ hổng tâm lý đã kể là ngay từ lúc khởi đầu người ta đã lỡ cho
mệnh lý một giá trị quá cao, nên về sau dù hoàn cảnh mâu thuẫn thế nào
cũng phải biện hộ cho giá trị quá cao đó. (Loại hiện tượng tâm lý này
không hiếm trong tình trường; như anh A mê cô B quá độ thì dù cô B lầm
lỗi đến bao nhiêu, anh A vẫn cố tìm lý lẽ để biện hộ cho cô cho bằng
được.)
Muốn vượt thắng những lỗ hổng tâm lý loại này hoặc tương tự, chỉ có một cách, đó là áp dụng luận lý khoa học.
Một khi chấp thuận luận lý khoa học là tiêu chuẩn rồi, ta sẽ thấy nhu
cầu bắt buộc là phải loại ngay các trường hợp mâu thuẫn. Và trong diễn
trình loại bỏ mâu thuẫn, người viết chắc chắn rằng một kết quả tìm được
sẽ là: Mệnh lý không có tính tuyệt đối!
Có độc giả sẽ hỏi “Tại sao ông dám nói thế? Biết đâu đời này có số mệnh
tuyệt đối thì sao?” Xin trả lời rằng “mệnh lý” không phải là “số mệnh”
mà là ngành học nhắm mục đích diễn tả số mệnh. “Mệnh lý” và “số mệnh”
khác nhau như hình vẽ quả cam và quả cam vậy. Nên chuyện có số mệnh
tuyệt đối hay không chẳng dính líu gì đến tính thiếu tuyệt đối của mệnh
lý.
Từ cái nhìn toán học, giả như ta diễn tả “số mệnh” bằng một hàm số S, và
liệt kê ra tất cả những yếu tố có thể là biến số thì rất có thể năm
tháng ngày giờ sinh là những biến số quan trọng nhất, như khoa Tử Vi chủ
trương. Nhưng vì không có quy luật nào bảo ta rằng năm tháng ngày giờ
sinh là những biến số duy nhất, nên để đầy đủ ta ký hiệu hàm số S như
sau:
S(năm, tháng, ngày, giờ, X1, X2, X3,…,Xn)
Tức là ngoài năm, tháng, ngày, giờ sinh ra, S rất có thể còn lệ thuộc
vào n biến số mà ta ký hiệu là X1 đến Xn; và rất có thể thứ tự ra đời
trong trường hợp sinh đôi và hoàn cảnh sống là hai trong những biến số
đó (chú 3).
Điểm chính yếu là, thuyết cho rằng năm tháng ngày giờ sinh định 100%
cuộc sống con người không thể đứng vững được khi so sánh với dữ kiện
thực tế (anh em sinh đôi, hai người khác đời cùng lá số v.v…). Nghĩa là
Tử Vi không thể đúng 100%, nên nó chỉ có giá trị xác xuất mà thôi. Mà đã
công nhận tử vi chỉ có giá trị xác xuất thì phải bác bỏ ngay thuyết cho
rằng đời sống con người đã được in rành rành trên lá số.
Mặc dù trên đây chỉ nói đến khoa tử vi, ta có thể lý luận y hệt cho mọi
ngành mệnh lý khác. Tóm lại, một khi chấp nhận luận lý khoa học thì phải
đặt lại giá trị của mệnh lý, cho nó một vị trí khiêm nhường hơn nhưng
đúng đắn và hợp lý hơn.
Đề nghị 4: Chọn toán học làm ngôn ngữ của mệnh lý
Là người học mệnh lý từ sách vở, chúng ta phải nhìn nhận một thực tế là
các sách giáo khoa mệnh lý thiếu tính cập nhật. Ngôn ngữ trong các sách
này còn bị ám ảnh bởi cái sợ thiên nhiên, quỷ thần của người xưa nên có
nhiều tính huyền học hơn là khoa học. Các phần đòi hỏi tính toán thì xử
dụng các phương pháp thô sơ đã lỗi thời của người xưa thay vì các phép
mới mẻ hơn, tiện lợi hơn mà toán học khám phá ra sau này. Nói chung là
lạc hậu, đi sau thời đại quá xa. Khuyết điểm này cần phải được tu sửa
điều chỉnh thì mới mong một ngày nào đó mệnh lý có vị trí của một ngành
khoa học.
Theo thiển ý, chỉ có một cách điều chỉnh hợp lý là xử dụng ngôn ngữ của
khoa học, tức là diễn tả mệnh lý bằng toán học. Đây chính là ngôn ngữ mà
người viết đã chọn lựa khi viết loại bài này cũng như các đề tài khác
liên quan đến mệnh lý.
Tại sao chọn toán học làm ngôn ngữ để diễn tả mệnh lý? Thưa, vì toán học
là một ngôn ngữ chính xác, và lịch sử khoa học đã chứng minh là nó hết
sức hữu hiệu trong việc truyền đạt ý tưởng xuyên qua nhiều thế hệ. Nhờ
toán học, người đời nay có thể đọc các sách khoa học viết từ mấy trăm,
thậm chí cả ngàn năm trước mà không sợ hiểu lầm như trường hợp chúng ta
đọc các sách mệnh lý cổ xưa (viết bằng chữ Hán cổ, với một số từ mà ngay
người Trung Hoa thời nay cũng chẳng hiểu nghĩa gì). Hơn nữa, toán học
lại là một khí cụ rất tiện lợi cho sự suy diễn khoa học, giúp ta có thể
tìm ra những kết quả mới từ kiến thức cũ, điểm này lịch sử có dẫy đầy
chứng minh thiết tưởng chẳng cần viết ra dài dòng làm gì.
Nhưng lựa chọn toán học thì phải tuân theo đòi hỏi chính xác của toán
học. Vì đòi hỏi chính xác, toán học có quy luật trình bày riêng của nó.
Khi mở một quyển giáo khoa vật lý dạy thuyết Tương Đối chẳng hạn, ta
thấy cốt tủy những điều được giảng dạy là suy luận hiện đại, và nếu so
sánh ta sẽ thấy khá nhiều khác biệt so với những gì Einstein đã viết
ngày xưa, mặc dù Einstein là người khám phá ra thuyết tương đối. Ấy bởi
vì ngay cả thuyết tương đối cũng không dừng lại với Einstein, mà đã được
liên tục khai triển, mở rộng, điều chỉnh bởi các thế hệ đi sau ông để
thành kiến thức cập nhật.
Đây chính là phương cách mà người viết đã chọn để trình bày vấn đề, tức
là xử dụng lý luận cập nhật nhất, khoa học nhất, hiện đại nhất, thay vì
lập lại những gì người xưa đã viết. Các độc giả đã quen với lối trình
bày của các sách mệnh lý cổ có thể thấy hơi khó chịu, nhưng người viết
tin rằng lần hồi ngay cả các độc giả này cũng thấy cái ưu điểm của lối
trình bày vấn đề bằng ngôn ngữ của khoa học. Riêng các độc giả thuộc thế
hệ trẻ hoặc được huấn luyện trong môi trường kỹ thuật thì chắc chắn sẽ
thấy lối trình bày này dễ hiểu hơn các sách mệnh lý cổ rất nhiều.
Dĩ nhiên đời này không có gì hoàn hảo. Ngôn ngữ toán học có ưu điểm là
chính xác, dễ truyền đạt ý tưởng; nhưng nó cũng là một ngôn ngữ rất nhàm
chán so với tiêu chuẩn thường ngày của chúng ta. Cũng dễ hiểu, vì khoa
học chẳng phải là chỗ dụng võ của thi phú, văn chương.
CHÚ THÍCH
(1) Đây chính là diễn trình dẫn đến hai thuyết tương đối của Einstein
cũng như thuyết vật lý lượng tử. Trước khi có hai thuyết tương đối của
Einstein, các khoa học gia đã có một số kết quả thí nghiệm không giải
thích được bằng vật lý Newton. Trước khi có vật lý lượng tử, các khoa
học gia đã có một số kết quả thí nghiệm không thể giải thích được bằng
vật lý cổ điển.
(2) Xét cách đãi lọc mà ta hay thấy trong làng Tử Vi chẳng hạn. Ông thầy
tin cách X là “đại phú”, gặp khách hàng có cách X mà không giàu sụ ông
vẫn có vài cách biện hộ, như “chắc là giờ lấy sai” hoặc “đây là ngoại lệ
hiếm hoi vì…” v.v… Kết quả là với ông thầy, cách X vẫn là cách “đại
phú”; tức là tưởng đãi lọc mà chẳng có đãi lọc gì cả.
(3) Nhiều trường phái Tử Vi cho rằng hoàn cảnh đã nằm trong lá số, tức
là bao hàm trong năm tháng ngày giờ sinh; nhưng đây chỉ là một niềm tin,
nên cũng rất có thể hoàn cảnh sống cũng là một biến số nằm ngoài lá số
tử vi.
VÌ ĐÂU TÔI DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC?
Nếu một độc giả nào đó có duyên gặp quyển
“Chu dịch dữ Tử Vi đẩu số” (Chu Dịch và Tử Vi) của ông Tạ Phồn Trị (1)
rồi mở ra đọc, có lẽ sẽ chẳng thấy sách này có chút khoa học tính nào
cả. Ấy bởi vì trong sách ấy ông Trị vẫn dùng loại ngôn ngữ huyền hoặc
như các sách mệnh lý cũ, và loại lý luận tùy hứng, hễ kẹt là mượn một
câu nào đó của thánh nhân, phán ra bắt độc giả chấp nhận như chân lý.
Vậy thì tại sao tôi lại dám nói rằng thuyết của ông Trị hiện có khoa học tính cao nhất trong tất cả các thuyết được lưu hành?
Nguyên là tôi may mắn được hoàn cảnh cho
phép cắp sách đến trường nhiều năm nên học được cách áp dụng “phương
pháp khoa học” (2). Nhờ phương pháp này tôi có thể dùng tiêu chuẩn khoa
học để làm việc đãi lọc khi đọc sách, nói theo tiếng lóng là việc “nhặt
sạn” để gạn bỏ đi cái sai trái hoặc tầm thường hầu nhìn ra cái tinh hoa
tuyệt học ẩn trong những công trình thoạt xét qua tưởng là không có gì
cả.
Cần nói rằng tôi áp dụng phương pháp khoa
học không chỉ với sách của ông Trị mà với tất cả các sách Tử Vi khác,
như bộ “Tử Vi Đẩu Số Tân Biên” của ông Vân Đằng Thái Thứ Lang, “Tử Vi
chỉ nam” của ông Song An Đỗ Văn Lưu, “Tử Vi áo bí” của ông Hà Lạc Dã
Phu, “Tử Vi nghiệm lý” của ông Thiên Lương, như phái “huyền không tứ
hóa” của ông Chính Huyền Sơn Nhân, phái tạm gọi là “âm dương” (3) của
ông Liễu Vô cư sĩ, phái Trung Châu (4) do ông Vương Đình Chi đại diện,
phái “Nhất Diệp Tri Thu” (5) do ông Phan Tử Ngư đại diện, gần đây hơn là
sách của các ông Trịnh Mục Đức (phái Hoa Sơn), Trương Thanh Uyên (có vẻ
là một chi của Trung Châu phái) v.v…
Kết quả việc đãi lọc sơ khởi của tôi là
mỗi sách, mỗi phái đều có một vài tinh hoa mà người nghiên cứu khoa học
nên chú ý; nhưng chỉ có ông Liễu Vô cư sĩ và ông Tạ Phồn Trị là có hy
vọng thỏa đòi hỏi của khoa học hiện đại.(Chú ý tại chỗ: Sách không
thỏa đòi hỏi của khoa học không có nghĩa là sách không hay, chỉ là ta
khó chuyển nó sang ngôn ngữ của khoa học, thế thôi).
So sánh riêng hai ông Liễu Vô cư sĩ và Tạ
Phồn Trị thì rõ là hai thái cực. Ông Liễu Vô cư sĩ ra rất nhiều sách
mệnh lý (trên 20 quyển là ít, có lẽ khi bài này được viết đã trên 40),
ông Tạ Phồn Trị thì cho đến khi tôi rời Đài Loan năm 2001 chỉ có đúng
một quyển là “Dịch kinh dữ tử vi đẩu số” thôi. Suy tư của ông Liễu Vô cư
sĩ đã được nhiều người trong giới trí thức khoa bảng của Đài Loan chấp
nhận và viết sách xiển dương phát triển thêm, có thể nói rằng ông đã trở
thành sư tổ của một môn phái mới ở Đài Loan; còn ông Tạ Phồn Trị có vẻ
là một ẩn sĩ (theo lời tựa thì sách của ông được viết ở Los Angeles,
California, Hoa Kỳ; không phải ở Đài Loan), sách không phổ biến nhiều,
xác xuất được đời biết đến phải coi là không đáng kể, bảo là phường vô
danh tiểu tốt cũng chẳng phải quá lời. Về cách viết thì ông Liễu Vô cư
sĩ rất rành mạch khúc chiết, lập luận phù hợp khoa học hiện đại; còn ông
Trị thì viết theo lối xưa, tức là hay “phán” ra những câu có tính kết
luận mà thiếu dẫn chứng và bắt người đọc chấp nhận.
Tôi nhìn nhận là trên hình thức thuyết
của ông Liễu Vô cư sĩ có vẻ hoàn toàn phù hợp khoa học hiện đại, nhưng
có một điểm khiến tôi lo ngại là thuyết này bắt ta phải bỏ gần như phân
nửa cái nền tảng cũ của Tử Vi (bỏ gần hết các sao). Suy nghĩ của tôi là
người xưa có thể sai lầm, nhưng xác xuất để họ sai lầm ghê gớm đến độ
như vậy mà khoa Tử Vi vẫn tồn tại đến ngày nay tôi nghĩ là nhỏ lắm.
Lại nghĩ thêm, lần hồi tôi cho rằng tôi
đã tìm ra cái thiếu sót nếu không muốn gọi là sai lầm trong cơ sở tư duy
của ông Liễu Vô cư sĩ.
(còn tiếp)
CHÚ THÍCH
(1) Trước vì sách này thất lạc, tôi nhớ mang máng tên là “Dịch kinh dữ
tử vi đẩu số”, sau may mắn tìm lại được, mới biết tên đúng là “Chu dịch
dữ tử vi đẩu số”.
(2) Phương pháp khoa học là gì thì các sách giáo khoa đã nói nhiều, ở đây xin không nhắc lại.
(3) Ông Liễu Vô cư sĩ chủ trương loại bỏ tất cả mọi ảnh hưởng dính líu
đến ngũ hành, kể cả sao Lộc Tồn. Phái của ông chỉ giữ chính tinh, tứ
hóa, lục cát và lục sát.
(4) Tôi cho rằng phái này có cùng gốc với Tử Vi Việt Nam.
(5) Phái Nhất Diệp tri thu phối hợp thêm Thất Chính tứ dư vào Tử Vi, cách xem hết sức phức tạp.
VÌ ĐÂU TÔI DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC? (tiếp theo)
A. Phê bình chủ trương bỏ ngũ hành của ông Liễu Vô cư sĩ
Đóng góp chính của ông Liễu Vô cư sĩ cho khoa Tử Vi có thể thu vào 5 điểm:
1. Tử Vi hoàn toàn không dính líu gì đến ngũ hành.
2. Đại hạn phải khởi ở mệnh mới đúng, khởi ở huynh đệ hoặc phụ mẫu là sai. (“Mệnh cung bất khả vô đại hạn”).
3. Tử Vi trọng lý quân bình, nên mệnh và tam phương tứ chính không có
SÁT TINH không những không tốt như sách cũ nói, mà phải luận là xấu!
4. (Lưu) Tứ hóa là nền tảng của việc xem hung cát của đại hạn cũng như lưu niên.
5. Xem đại hạn chỉ cần biết đến lưu Hóa của đại hạn, bất chấp tứ Hóa nguyên thủy (thuyết “Mệnh vận phân ly”).
Mỗi điểm trên đây tự nó là một luận đề,
muốn chứng minh hoặc phản biện đều đòi hỏi thời gian và công sức. Quý vị
nào hứng thú xin mời tham gia phản biện. Nhưng xin lượng sức, vì ông
Liễu Vô cư sĩ chẳng phải tay mơ mà là một kiện tướng của cả hai khoa Từ
Vi và Tử Bình, dám viết khá nhiều sách bình chú chê người xưa là thiếu
khoa học và đề nghị sửa sai (Tử Bình chân thuyên hiện đại bình chú,
Thanh triều mộc bản Tử Vi đẩu số toàn tập hiện đại bình chú, Đẩu số đàn
vi hiện đại bình chú v.v…) Ông cũng chẳng phải là thiếu thực nghiệm,
trái lại một lý do khiến ông thành danh là đoán trước vận mệnh các nhân
vật chính trị ở Đài Loan mà kết quả ra đúng phóoc, và rõ ràng trên giấy
trắng mực đen, chứ chẳng phải là lời đồn đại.
Riêng về Tử Vi, giờ có thể coi ông Liễu Vô cư sĩ là sư tổ của một phái
mới ở Đài Loan, được nhiều người trong giới trí thức ủng hộ nồng nhiệt,
có mấy người viết hàng loạt sách khác dựa trên phương pháp của ông.
Những người theo ông Liễu Vô cư sĩ có đặc điểm là xem số chỉ dùng 14
chính tinh, lục sát (6), lục cát (6), và Tứ Hóa (4), cộng lại chỉ có 30
sao. Có người bỏ luôn Quyền Khoa, còn 28.
Trong phạm vi của đề tài này, tôi chỉ phản biện điểm 1, tức chủ trương
loại hẳn ngũ hành ra khỏi Tử Vi của ông Liễu Vô cư sĩ mà thôi. (Tôi cũng
không đồng ý với chủ trương “mệnh vận phân ly” của ông, nhưng đó là
chuyện khác).
Vì mệnh lý Á đông chỉ có hai cái nền là âm dương và ngũ hành, không cần
đi vào chi tiết cũng biết là ông Liễu Vô cư sĩ phải dùng thuyết âm dương
trong Tử Vi. Vậy thì điểm khiến ông khác người là trong khoa Tử Vi thay
vì dùng cả âm dương lẫn ngũ hành như người ta, ông lại bỏ ngũ hành đi
chỉ dùng âm dương thôi.
Muốn làm được như thế thì âm dương và ngũ hành phải là hai thuyết hoàn
toàn biệt lập với nhau, vì nếu không biệt lập thì khi cắt thuyết ngũ
hành ta có thể làm hỏng thuyết âm dương và ngược lại.
Nay tôi đặt câu hỏi: “Có thật âm dương và ngũ hành là hai thuyết hoàn toàn biệt lập hay không?”
Câu hỏi này nghe có vẻ cắc cớ, nhưng đừng quên rằng “cắc cớ” là một đòi
hỏi rất lớn của khoa học. Chính nhờ hay hỏi “cắc cớ” mà khoa học đã liên
tục tiến bộ.
Tôi biết là đa số áp đảo nếu không muốn nói là toàn thể quý độc giả đều
trả lời rằng dĩ nhiên âm dương và ngũ hành là hai thuyết hoàn toàn độc
lập. Đây là câu trả lời tự nhiên nhất, vì chúng ta đã được dạy như thế,
và chúng ta cũng cảm thấy như thế. Chính tôi cũng từng mấy mươi năm
tưởng như thế.
Nhưng bây giờ tôi xin tuyên bố với quý vị rằng “Ngũ hành chỉ là một phép
tính gần đúng của âm dương mà thôi”, và đây chẳng phải là một niềm tin
của tôi, mà là một “tái khám phá” của tôi, suy ra được bằng lý luận khoa
học, và đây không phải là lý luận khoa học áp dụng, mà là lý luận có
tính cơ sở của khoa vật lý. Vì diễn đàn này không phải là một diễn đàn
vật lý tôi chỉ xin hé mớ thế này:
1-Giả sử bình thường (của mọi ngành khoa học) là ba chiều của không gian luôn luôn tương đương nhau.
2-Giả sử trên đây sai lầm, vì chiều chuyển động khác với hai chiều còn
lại (có thể chứng minh bằng thuyết tương đối của Einstein).
3-Có thể chứng minh rằng thuyết ngũ hành ứng với trường hợp 1, và thuyết âm dương ứng với trường hợp 2.
4-Vì 1 là hoàn cảnh gần đúng của 2, ngũ hành là trường hợp gần đúng của âm dương.
Gần đây tôi đọc thấy một số vị phê bình thuyết “ngũ hành là thuyết gần
đúng của âm dương” một cách hết sức gay gắt. Tôi không ngạc nhiên, vì
cái gì mới lạ cũng phải bị chống đối trước. (Lùi lại mười năm trước thì
chính tôi cũng phải chống lại thuyết này).
Nhưng tôi xin lưu ý các vị chống lại thuyết “ngũ hành = âm dương gần
đúng” rằng ngoài âm dương ngũ hành ra, trên nền tảng khoa học chúng ta
phải tìm chỗ đứng cho thuyết tứ nguyên tố của mệnh lý tây phương nữa.
Thuyết tứ nguyên tố có vẻ lạc loài khi ta cố xếp nó vào cạnh hai thuyết
âm dương và ngũ hành, nhưng một kết quả của “tái khám phá” của tôi là tứ
nguyên tố cũng chỉ là một phép tính gần đúng của âm dương mà thôi. Tóm
lại:
a. Âm dương diễn tả vũ trụ chính xác nhất.
b. Ngũ hành là một cách tính gần đúng của âm dương.
c. Tứ nguyên tố là một cách tính gần đúng khác của âm dương.
Trở lại chuyện ông Liễu Vô cư sĩ loại ngũ hành ra khỏi Tử Vi. Một khi đã
nhìn nhận rằng ngũ hành chỉ là một phép tính gần đúng của âm dương thì
sẽ thấy ngay việc loại ngũ hành ra khỏi Tử Vi chẳng những sai lầm mà
hoàn toàn không cần thiết.
(còn tiếp)
THÊM CHI TIẾT VỀ TƯƠNG QUAN GIỮA ÂM DƯƠNG VÀ NGŨ HÀNH
Tôi vừa thấy một lời phản biện thuyết “ngũ hành = âm dương gần
đúng” mà tôi đề xướng. Lời phản biện này rõ ràng đã dựa trên một sự hiểu
lầm, dẫn đến nguy cơ là hiểu lầm chồng chất lên hiểu lầm, rồi tam sao
thất bản và người ta tưởng là sự thật.
May sao, tôi còn giữ một bài cũ có nhắc sơ đến thuyết “ngũ hành =
âm dương gần đúng”, nay xin cắt ráp để quý độc giả có thể thấy rõ ràng
hơn cái nền chính của lập luận mà tôi đề xướng. Quý vị nào muốn phản
biện xin đọc cho kỹ.
Rất tiếc, tôi đã dành thời giờ cho việc khác, nên từ chối mọi cuộc
tranh luận. Tuy nhiên, quý vị nào thấy tôi sai thì cứ việc làm như các
nhà khoa học (họ rất ít khi tranh luận trực tiếp, vì sợ tình cảm xen vào
làm hỏng lí trí), là viết một bài luận văn giải thích tại sao quý vị
lại nghĩ như vậy để quý độc giả rộng đường luận xét.
Liên hệ khoa học giữa hai thuyết âm dương và ngũ hành
Lý do tại sao soạn giả cho rằng ngũ hành chỉ là một phép tính gần đúng
của thuyết âm dương đã được trình bày trong loạt bài “Mệnh lý hoàn toàn
khoa học”. Tiếc rằng khi bài này được viết “Mệnh lý hoàn toàn khoa học”
vẫn chưa được in thành sách. Để các độc giả chưa đọc “Mệnh lý hoàn toàn
khoa học” có khái niệm tổng quát về lập luận của soạn giả mà không mất
nhiều thời giờ, xin trình bày đại lược như sau:
-Vũ trụ vật chất của chúng ta gồm 4 chiều là 3 chiều không gian và một
chiều thời gian. Từ kết quả của thuyết tương đối của Einstein, có thể
chứng minh được rằng ba chiều không gian gồm hai chiều tương đương tạo
thành chùm mặt phẳng thẳng góc với chuyển động. Chiều của chuyển động
thì có lý tính khác với hai chiều kia (chú 3).
-Dùng những đặc tính kể trên để lập mô hình toán học của các hiện tượng
hiện hữu, thì mô hình hợp lý nhất là các vòng tròn đại biểu hai lý tính
âm dương nằm trên một mặt phẳng định hướng. Mô hình này hoàn toàn phù
hợp với thuyết âm dương, vì nó dẫn đến sự hình thành tất yếu của bát
quái, và sự tương ứng giữa 64 quẻ với các hiện tượng của cuộc đời.
-Trong mô hình nói trên của thuyết âm dương, mặt phẳng đại biểu hai
chiều không gian tương đương nên là môi trường hiện hữu của các vòng
tròn âm dương. Các vòng tròn âm dương thì chẳng gì khác hơn là biểu
tượng của hai cách giao thoa giữa chiều thời gian và chiều không gian
còn lại, tức chiều chuyển động. (Ngoài ra, có thêm một đòi hỏi liên hệ
đến thời gian là mặt phẳng phải được định hướng và có điểm trước, điểm
sau).
-Nếu đặt giả sử gần đúng rằng không có sự khác biệt giữa ba chiều
không gian (chú 4), tức là không gian hoàn toàn bình đẳng thì môi trường
hiện hữu không chỉ là một mặt phẳng mà là toàn thể không gian ba chiều.
Hai cách giao thoa giữa không gian và thời gian vẫn tồn tại, nhưng bây
giờ phải được biểu diễn bằng các hình cầu với hai lý tính âm dương khác
nhau. Các thực thể trong không gian bình đẳng này ứng với kết cấu bền bỉ
nhất của các hình cầu. Kết cấu bền bỉ nhất là kết cấu có tính đối xứng
cao nhất, nên mỗi thực thể được tạo bởi 4 hình cầu âm dương cùng lúc
tiếp xúc với nhau (bốn tâm tạo thành hình tứ diện đều). Ly kỳ làm sao,
chỉ có đúng 5 cách xếp 4 hình cầu âm dương khác nhau, nên mô hình này
dẫn đến sự tồn tại tất yếu của 5 thực thể phân biệt. Độc giả có thể đoán
được là mô hình này hoàn toàn phù hợp với thuyết ngũ hành (xin tự vẽ
hình rồi kiểm soát lấy). Cường điệu hơn, nó chính là thuyết ngũ hành
được diễn tả bằng hình học.
Sau khi đã chọn 5 thực thể (ngũ hành) làm nền tảng của mọi hiện tượng
trong vũ trụ thì liên hệ 2 chiều trở thành tất yếu. Đây chính là liên
hệ “sinh khắc” mà mọi người nghiên cứu thuyết ngũ hành đều quen thuộc.
Nhưng liên hệ một chiều “sinh khắc” không phản ảnh được nhiều hiện tượng
có thật trên cuộc đời (như liên hệ hai chiều “yêu nhau” chẳng hạn), nên
ngũ hành phải phối hợp với lý âm dương mới thành hệ thống hoàn chỉnh.
Có thể thấy rằng ngay trên lý thuyết không thể có thuyết ngũ hành đứng
riêng rẽ mà chỉ có thuyết ngũ hành đã phối hợp với âm dương thành thuyết
âm dương ngũ hành; mặc dù vì thói quen ngắn gọn ta hay gọi thuyết này
là thuyết “ngũ hành” mà bỏ hai chữ “âm dương”.
Đó là mệnh lý Á đông. Nhìn sang mệnh lý tây phương (phát xuất từ trung
đông) ta thấy thuyết tứ nguyên (còn gọi là thuyết “tứ nguyên tố”, tức
“four elements”) thay vì thuyết ngũ hành. Hiển nhiên thuyết tứ nguyên đã
lâu năm hiện diện biệt lập với thuyết ngũ hành và ngược lại. Khi truy
xét kỹ, ta khám phá ra rằng thuyết tứ nguyên tố cũng đã chứa sẵn cái nền
rất đậm của thuyết âm dương, mặc dù các nhà nghiên cứu chiêm tinh tây
phương hình như chẳng hề chú ý đến sự kiện hiển nhiên ấy.
Tóm lại, hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên không thể tự tồn tại mà chỉ có
thể tồn tại trên cái nền của thuyết âm dương. Gọi thuyết ngũ hành là
NH, thuyết tứ nguyên là TN, thuyết âm dương là AM. Ta thấy có hai thực
thể tồn tại, một là tập hợp {NH, AM}, hai là tập hợp {TN, AM}, mà không
hề có {NH} hoặc {TN} riêng rẽ. Dùng lý {B lệ thuộc A} => {có B tất
phải có A} và {có A không nhất thiết có B} ta thấy lời giải hợp lý nhất
là hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên đều phải lệ thuộc vào thuyết âm
dương, nói cách khác ngũ hành và tứ nguyên là hai thuyết phụ của thuyết
âm dương.
Nhưng tại sao nhân loại không chỉ dùng thuyết âm dương mà lại sinh ra
thêm hai thuyết phụ này? Để trả lời ta chỉ việc so sánh các liên hệ nội
tại của ba thuyết âm dương, ngũ hành, tứ nguyên. Liên hệ “đối đãi” (vừa
bổ khuyết vừa đối nghịch) của thuyết âm dương khi áp dụng vào các bài
toán mệnh lý thường chỉ cho các kết luận hết sức mơ hồ, trong khi đó
liên hệ “sinh khắc” của thuyết ngũ hành và “hợp xung” của thuyết tứ
nguyên thường cho kết quả khá rõ nét. Vì vậy đáp án là: Hai thuyết ngũ
hành và tứ nguyên cần thiết vì chúng cho ta các kết quả rõ nét hơn
thuyết âm dương. Nhưng nếu ngũ hành và tứ nguyên là hai thuyết phụ, lại
khác nhau, thì dĩ nhiên độ chính xác của chúng không thể nào sánh bằng
thuyết mẹ của chúng là thuyết âm dương. Thành thử ta kết luận ngũ hành
và tứ nguyên chỉ có thể là hai phép tính gần đúng của thuyết âm dương,
tương tự như lời giải gần đúng của hai ngành kỹ sư khác nhau cho cùng
một phương trình vật lý vậy.
Những điều trên đây đã được luận trong loạt bài “mệnh lý hoàn toàn khoa
học”, hy vọng một ngày gần đây được in thành sách, lúc ấy mọi sự sẽ rõ
ràng hơn. Phần trình bày ở trên chỉ là đại lược mà thôi.
Trở lại vấn đề. Vì ngũ hành chính là một cách tính gần đúng của thuyết
âm dương (chú 2), ta không thể lấy lý do âm dương là yếu tố áp đảo trong
bài toán Tử Vi mà bỏ ngũ hành. Thành thử bỏ thần sát với lý do “vì thần
sát dựa trên ngũ hành” trở thành một lập luận rất khập khiễng, nếu
không muốn nói là đi ngược lại cơ sở khoa học.
Mặc dù bất đồng ý với chủ trương bỏ ngũ hành của ông Liễu Vô cư sĩ, soạn
giả nhìn nhận rằng ông có công đặt ra vấn đề thần sát một cách nghiêm
chỉnh. Việc làm của ông khiến người nghiên cứu có quan tâm bắt buộc phải
nhìn lại các thần sát dưới một lăng kính tỉ mỉ hơn, khoa học hơn.
CHÚ THÍCH
2) Chỉ nói thuyết ngũ hành là một cách tính gần đúng của thuyết âm
dương, vì còn một cách tính gần đúng khá quan trọng khác là thuyết tứ
nguyên tố. Những tương đồng và khác biệt giữa hai thuyết ngũ hành và tứ
nguyên tố sẽ không được luận trong sách này. Các độc giả muốn tìm hiểu
thêm xin đọc quyển “mệnh lý hoàn toàn khoa học” của cùng soạn giả.
3) Theo thuyết biệt tương đối (Special Relativity) của Einstein, một
chiều dài L song song với chiều chuyển động sẽ lệ thuộc vận tốc chuyển
động theo công thức L=L0(1-v2/c2)0.5, với L0 là một chiều dài cố định, v
vận tốc chuyển động, c vận tốc không đổi của ánh sáng. Chiều dài L đại
biểu không gian, nên có thể thấy theo vật lý Einstein thì chiều chuyển
động không thể nào tương đương với hai chiều không gian còn lại. Có điều
lạ lùng là ngay cả vật lý hiện đại cũng vẫn giả thử (một cách sai lầm
rằng) 3 chiều không gian hoàn toàn tương đương nhau. Điểm này được luận
kỹ hơn trong tập “kinh Dịch hoàn toàn khoa học”, tiếc là tập này chưa in
khi bài này được viết.
4) Ba chiều không gian hoàn toàn tương đương chính là giả sử của vật lý
Newton. Có thể thấy thuyết âm dương phù hợp với vật lý Einstein, thuyết
ngũ hành phù hợp với vật lý Newton. Vì vật lý Newton có tính gần đúng so
với vật lý Einstein, có thể suy ra thuyết ngũ hành có tính gần đúng so
với thuyết âm dương.
VÌ ĐÂU TÔI DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC? (kỳ 3)
B. Về lý do tại sao thuyết của ông Trị phù hợp với khoa học
Như tôi đã trình bày trong một lần trước, nếu đọc thẳng sách “Chu
dịch dữ Tử Vi đẩu số” của ông Tạ Phồn Trị thì sẽ chẳng thấy tính khoa
học ở đâu cả. Thế nhưng đây không phải là vấn đề vì đã có người (tức bản
thân tôi) bỏ thời gian và công sức ra phân tích và xác định đặc tính
khoa học ẩn tàng trong sách này. Những điều trình bày tiếp đây là cái
tính khoa học mà tôi đã đào quật ra từ sách ấy cộng với những ý kiến cá
nhân của tôi.
Để tránh trường hợp người khác nhận diện lầm lẫn tôi sẽ cố đề rõ ý nào của ông Trị, ý nào do tôi thêm vào.
1. Nền tảng “tuần hoàn” của bài toán Tử Vi
2. Cái lý của 14 chính tinh
3. Cái lý của tứ Hóa
4. Cái lý của các sao Tả Hữu Xương Khúc Hình Riêu Không Kiếp Thai Toạ Quang Quý Thai Cáo Thiên Địa Giải
5. Cái lý của các sao thần sát
Nay xin đi từng bước một
1. Nền tảng “tuần hoàn” của bài toán Tử Vi
Tử Vi là một trong nhiếu áp dụng của một ngành khoa học có tính cùng
khắp mà ta tạm gọi là mệnh lý, tương tự như khoa kỹ sư không gian là một
ứng dụng của hai ngành khoa học là lý và hóa vậy.
Mọi áp dụng đều phải khởi từ một hoặc nhiều giả sử nền tảng có tính đặc
thù. Trước hết “nền tảng” có ý nghĩa nôm na là không thể bỏ được, nên
“giả sử nền tảng” có nghĩa là giả sử không thể nào bỏ đi được, bất luận
chiều kích hoặc phương pháp khai triển xảy ra như thế nào.
Tĩnh từ “đặc thù” ở đây rất quan trọng, vì mặc dù thuyết âm dương chắc
chắn là một nền tảng của khoa Tử Vi (chú 1), nó cũng là cái nền tảng
chung của nhiều ngành khác, bởi vậy “thuyết âm dương” không phải là cái
nền tảng đặc thù của khoa Tử Vi.
Có người sẽ trả lời rằng cái nền tảng đặc thù của Tử Vi là nó không cần
biết đến tiết khí (mà chỉ cần biết đến năm tháng ngày giờ sinh). Tôi sẽ
phản biện rằng đây không phải là câu trả lời chính xác, vì ngay khi bài
này được viết vẫn có nhiều người trong giới nghiên cứu đang tìm cách
mang tiết khí vào khoa Tử Vi, điều đó chứng tỏ rằng “không cần biết đến
tiết khí” chỉ có giá trị của một thủ tục mà không có tính nền tảng.
Vậy cái nền tảng đặc thù của khoa Tử Vi là gì? Quý vị nào có hứng thú
xin cứ tự nhiên góp ý, phần tôi sẽ giải thích sau tại sao tôi cho rằng
cái nền tảng ấy là lý tuần hoàn.
CHÚ THÍCH:
(1) Không vội nói đến ngũ hành vì có thể có độc giả tin vào thuyết của
ông Liễu Vô cư sĩ (cho rằng Tử Vi không dính líu gì đến ngũ hành).
VDTT đã viết:
4) Ba chiều không gian hoàn toàn tương đương chính là giả sử của
vật lý Newton. Có thể thấy thuyết âm dương phù hợp với vật lý Einstein,
thuyết ngũ hành phù hợp với vật lý Newton. Vì vật lý Newton có tính gần
đúng so với vật lý Einstein, có thể suy ra thuyết ngũ hành có tính gần
đúng so với thuyết âm dương. |
|
|
Phải chăng vì như các ông bà phân tâm học nói, thỉnh thoảng con người
lại buột miệng ra những cái sai cũ mà tôi viết đoạn chú thích trên đây,
vì đoạn này rõ ràng sai.
Nó sai vì không và thời gian được kết hợp trong cả hai thuyết âm dương
và ngũ hành, mà vật lý Newton cho rằng thời gian biệt lập với không
gian, nên không thể so sánh thuyết ngũ hành với vật lý Newton được.
Tôi xin tự sửa lại như sau:
-Âm dương ứng với thuyết biển thời không của Einstein khi áp dụng đúng.
-Ngũ hành ứng với thuyết biển thời không của Einstein khi áp dụng gần đúng.
Tức là tôi trước sau như một cho rằng ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương.
Tôi sẽ đào sâu thêm lý do trong phần sau.
VDTT đã viết:
3) Theo thuyết biệt tương đối (Special Relativity) của Einstein,
một chiều dài L song song với chiều chuyển động sẽ lệ thuộc vận tốc
chuyển động theo công thức L=L0(1-v2/c2)0.5, với L0 là một chiều dài cố
định, v vận tốc chuyển động, c vận tốc không đổi của ánh sáng. Chiều dài
L đại biểu không gian, nên có thể thấy theo vật lý Einstein thì chiều
chuyển động không thể nào tương đương với hai chiều không gian còn lại.
Có điều lạ lùng là ngay cả vật lý hiện đại cũng vẫn giả thử (một cách
sai lầm rằng) 3 chiều không gian hoàn toàn tương đương nhau. Điểm này
được luận kỹ hơn trong tập “kinh Dịch hoàn toàn khoa học”, tiếc là tập
này chưa in khi bài này được viết. |
|
|
Tôi cứ tưởng chú thích như trên là đủ để
những người có biết qua tân vật lý nhận ra sự khác biệt giữa chiều
chuyển động và hai chiều kia, không ngờ kết quả không như ý muốn. Vì vậy
tôi xin thêm những chi tiết sau. Quý vị nào muốn phản biện xin đọc cho
kỹ trước khi kết luận.
Sự thay đổi độ dài trong chiều chuyển
động theo vật lý Einstein dẫn đến kết quả là ta phải nối kết thời gian
vào với không gian. Để thí dụ sự khác biệt giữa vật lý Newton và vật lý
Einstein, xét một động tử A ở một thời điểm t. Gọi (x,y,z) là tọa độ của
A trong hệ thống trục bình thường, và (X,Y,Z) là tọa độ của A trong một
hệ thống do (x,y,z) quay quanh gốc trục tọa độ (0,0,0) mà thành. Theo
vật lý Newton:
x^2 + y^2 + z^2 = X^2 + Y^2 + Z^2 (1)
Chú ý rằng t không có mặt trong hệ thức trên bởi vì theo vật lý Newton thì thời gian không ăn nhập gì với không gian.
Nhưng theo vật lý Einstein thì thời gian cũng tùy hệ thống trục mà thay đổi, nên hệ thức đúng phải là:
x^2 + y^2 + z^2 -(ct)^2 = X^2 + Y^2 + Z^2 – (cT)^2 (2)
Chú ý rằng vế bên trái có thêm {-(ct)^2}, vế bên phải có thêm {-(cT)^2} đại biểu thời gian khác nhau của hai hệ thống trục.
Nhìn qua phương trình 2 ta có cảm tưởng là x,y,z hoàn toàn tương đương
nhau, tương tự X,Y,Z cũng có vẻ hoàn toàn tương đương nhau. Nếu thế ta
sẽ phát biểu là trong vật lý Einstein ba chiều không gian vẫn hoàn toàn
tương đương với nhau. Đây chính là giả sử của khoa học hiện đại.
Thực tế như thế nào?
Nhờ thuyết biệt tương đối, ta biết rằng thời gian chỉ cộng hưởng với
chiều chuyển động mà thôi, nên (2) mặc dù đúng nhưng còn thiếu sót (vì
nó cho ta cảm tưởng rằng mọi chiều không gian đều có liên hệ bình đẳng
trong tác dung của chúng với thời gian). Để có thể thấy rõ ràng hơn, ta
chọn chiều chuyển động là x, khi ấy (2) trở thành:
x^2 + hằng số -(ct)^2 = X^2 + Y^2 + Z^2 – (cT)^2 (3)
Chú ý rằng y, z đã biến mất khỏi phương trình 3, và ta không thể thay
x^2 bằng y^2 hoặc z^2. Nếu hỏi x, y, z có còn tương đương hay không,
thiết tưởng câu trả lời đã quá rõ ràng rồi vậy.
Nếu quý vị nào thấy ý trên chưa rõ, xin thử giải đáp bài toán a,b,c khoanh dưới đây:
Trong vật lý Einstein, giả sử một vật điểm A di chuyển trên trục x, tìm câu trả lời chính xác nhất trong các câu trả lời sau đây:
(a) x^2 là yếu tố bất biến
(b) x^2 + y^2 + z^2 là yếu tố bất biến
(c) x^2 – (ct)^2 là yếu tố bất biến
(d) x^2 + y^2 + z^2 – (ct)^2 là yếu tố bất biến
Quý vị chọn c hay chọn d? Chọn c thì đồng ý với tôi (ý kiến mới), chọn d
xin cứ tiếp tục giữ ý kiến (ý kiến hiện tại của giới khoa học mà tôi
cho là thiếu sót).
Tôi đã bỏ công định ra mô hình của cả hai
trường hợp, mô hình của thuyết âm dương ứng với (c), mô hình của thuyết
ngũ hành ứng với (d). Tôi giải là (c) chính xác hơn (d), bởi vậy tôi
mới nói ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương.
Nếu không thích, có thể viết lại để tránh nối kết âm dương và ngũ hành với nhau:
-Âm dương là phép tính chính xác của mệnh lý (ứng c).
-Ngũ hành là phép tính gần đúng của mệnh lý (ứng d).
Hy vọng đã rõ ràng hơn.
V/V NGŨ HÀNH CHỈ LÀ THUYẾT GẦN ĐÚNG
Khoa học không hề có ý kiến nhất thống như một số người tưởng lầm, thậm
chí ngay cả cơ sở của khoa vật lý vẫn là đề tài bàn cãi sôi nổi. Chỉ có
một quy luật là “cái đang nổi của ngày hôm nay chưa chắc là cái đúng của
ngày hôm sau”. Quý vị còn hồ nghi có thể tìm đọc quyển “The Trouble
With Physics: The Rise of String Theory, the Fall of a Science, and What
Comes Next” của tiến sĩ Smolin về lý do tại sao ông cho rằng thuyết vật
lý “nóng” nhất hiện nay là String theory đã đẩy lùi khoa vật lý. Sách
này mới ra năm 2006.
Nhân đây xin kể một chuyện không xưa lắm. Năm 2002 sau khi tranh luận
trên một diễn đàn vật lý của google, tôi được một vị cao niên người Mỹ
liên lạc, xưng là đã có một thuyết có vài điểm tương đồng với tôi, từng
đưa cho ông Richard Feynman xem thử và được ông Feynman bảo là sẽ liên
lạc lại, tiếc thay (theo lời kể) việc liên lạc chưa xảy ra thì ông
Feynman qua đời. Bản thảo này tôi còn giữ, tựa đề là “the foundation of
physical reality”, soạn giả là tiến sĩ vật lý R.D. Stafford, viết năm
1982. Trong bản thảo này, tiến sĩ Stafford xét lại hiện trạng đầy mâu
thuẫn nội tại của vật lý ra đề xướng một thuyết mới.
Tôi đã đọc kỹ bản thảo này và thấy nó có tính thuyết phục rất cao (dĩ
nhiên có thể tôi thiên vị). Tôi nghĩ trình độ cao học vật lý trở lên đọc
bản thảo này có thể hiểu, nhưng tôi cho rằng bất luận trình độ cao bao
nhiêu cũng phải tốn rất nhiều công lực vì tài liệu này đòi hỏi người đọc
nhiều kiến thức toán cao cấp. (Quý vị nào tò mò xin vào trang của
ông Stafford, địa chỉ là http://home.jam.rr.com/dicksfiles và ấn chuột
vào hình quyển sách, các chương sẽ hiện ra.)
Theo tiến sĩ Stafford kể thì ông đã về hưu. Ông bắt đầu suy nghĩ về một
con đường mới cho vật lý trong thập niên 1960′s nhưng đến năm 2002 chỉ
mới có TS Nobel vật lý Richard Feynman là người duy nhất thèm đọc qua ý
kiến của ông mà thôi; những người khác (kể cả đồng nghiệp) cho là ông
khùng điên vì dám chê Einstein, Heisenberg v.v… là còn thiếu sót.
Ông Stafford cho rằng sau cái chết của ông Feynman sẽ chẳng còn ai hiểu
nổi công trình của ông nữa. Trong phần lời tựa (preface), ông than:
“I spent a substantial amount of time during the 1970′s and 80′s
attempting to find interest and/or support for my work. By 1987 I had
become convinced that I would find no one interested in my thoughts.
What is written here is written for posterity as I strongly suspect that
I will never personally meet anyone educated enough to follow my work
who is also objective enough to comprehend that the academy might be
wrong and that I could be right and yet not be recognized.”
Tạm dịch:
“Trong hai thập niên 1970 và 1980 tôi bỏ rất nhiều thời giờ tìm
người quan tâm tới và/hoặc ủng hộ công trình của tôi. Đến năm 1987 tôi
cho rằng tôi sẽ chẳng bao giờ tìm được ai quan tâm đến những suy nghĩ
của tôi. Những gì tôi viết đây là cho đời sau vì tôi hết sức lo ngại
rằng tôi sẽ chẳng bao giờ gặp ai đủ trình độ học vấn để hiểu công trình
của tôi và đồng thời đủ vô tư để nhận ra rằng viện hàn lâm có thể sai và
tôi có thể đúng mà không được công nhận.”
Theo tôi hoàn cảnh đầy thất vọng của tiến sĩ Stafford thật ra không có
gì đáng ngạc nhiên, vì ông chẳng phài là người duy nhất cho rằng mình có
thuyết mới; trên thế giới hiện tại chắc phải có cả ngàn, ngay cả chục
ngàn người trình độ tiến sĩ đang ôm ấp một thuyết mới như ông. Vấn đề là
ai chịu bỏ thời giờ để lần mò trong khu rừng lý thuyết và công thức
toán dầy đặc mà xét xem quan điểm của người viết là đúng hay sai. Nhất
là xưa nay sự sáng tạo và sự khùng điên chỉ cách nhau một khoảng cách
nhỏ như sợi tóc.
Câu chuyên về tiến sĩ Stafford cho thấy cái khó khăn của người lập
thuyết và cái khó khăn của việc đánh giá thuyết mới trong thời đại lạm
phát kiến thức ngày hôm nay, khi mà khí cụ cơ bản của khoa học là toán
học đã trở thành quá khó hiểu cho ngay cả những người trong giới nghiên
cứu khoa học.
Cái khó khăn càng ngày càng tăng gia của toán học là một trong nhiều lý
do phức tạp khiến giới khoa học chính thống, tức các giáo sư vật lý
chính thức trong các đại học nổi danh thế giới, còn phải tranh cãi huyên
thuyên về các ý kiến của nhau và không thể đồng ý ai sai ai đúng, nói
gì đến ý kiến của một gã VDTT.
Bởi vậy tôi không hề hy vọng là ý kiến của tôi sẽ được chấp nhận trong
vòng 5, 10 năm, thậm chí mấy mươi năm. Ngoài ra, vì biết rằng trong
những vấn đề như thế này tranh luận thắng không có nghĩa mình đúng,
tranh luận thua không có nghĩa mình sai, nên tôi đã quyết định từ chối
mọi cuộc tranh luận, thời giờ xin dành cho việc khác.
Nhưng nhờ hệ thống internet những người nào biết đến khoa học giờ có thể
thấy đại khái cái cơ sở lý luận của tôi (về lý do tại sao tôi cho rằng
ngũ hành chỉ là phép tính gần đúng, âm dưong mới đúng) và của những
người bất đồng ý với tôi. Các vị cho rằng mình có khả năng luận xét có
thể đóng vai bồi thẩm đoàn bắt đầu làm việc so sánh ngay từ bây giờ. Ai
nghĩ rằng tôi sai xin trình bày quan điểm của họ. Trình bày càng rõ ràng
thì càng giúp việc đánh giá đúng đắn được rút ngằn thời gian.
Tối hậu thì thời gian sẽ là ông quan tòa vô tư hơn hết.
Kế tiếp xin trở lại các vấn đề của khoa Tử Vi.
VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC (kỳ 4)
1. Lý tuần hoàn của khoa Tử Vi
Trước hết, như đã nói, tôi không thể nào biết ông Trần Đoàn nghĩ gì nên
những điều tôi viết chẳng phải là tôi đoán ý ông Trần Đoàn mà là dựa
theo những cái biết của khoa học hiện đại cộng với cái di sản khoa học
đặc thù của Á đông mà người tây phương chưa được biết đến.
Theo tôi cái lý tối hậu của khoa học, kể cả khoa học tây phương, là
thuyết “vạn vật đồng nhất thể” của Á đông. Nhận ra lý VVĐNT rồi thì sẽ
thấy ngay rằng lý tuần hoàn là một mấu chốt để giải bài toán mệnh lý vì
có thể coi đời một người chết già ứng với một chu kỳ tuần hoàn sinh
thành trụ diệt, tương đồng với rất nhiều hiện tượng thiên nhiên trong
cái vũ trụ vật chất mà chúng ta đang sống.
Quý độc giả có nghiên cứu Tử Bình hẳn đã nhận ra rằng khoa này dựa trên
một lý tuần hoàn nhất quán, đó là lý tuần hoàn của lục thập hoa giáp.
Bởi vậy năm tháng ngày giờ trong khoa bát tự đều theo một lý tuần hoàn
chung với chu kỳ là 60.
Tôi xin lưu ý quý độc giả rằng khi chọn lục thập hoa giáp làm cái lý
nhất quán, khoa Tử Bình đã phải trả bằng cái giá -mà tôi nghĩ khá đắt-
là nó buôc lòng phải lờ đi một hiện tượng tuần hoàn có tinh rất tự
nhiên, đó là hiện tượng tuần hoàn của mặt trăng. Mà đã gạt bỏ tính tuần
hoàn của mặt trăng rồi thì đâu còn lý do gì để coi mỗi chu kỳ của mặt
trăng là một tháng cho phải phiền toái vì tháng nhuận, vì thế tháng của
khoa Tử Bình hoàn toàn dựa trên tiết khí (lệ thuộc vào góc của trục trái
đất so với mặt trời) là rât hợp lý.
Khi muốn khảo sát một vấn đề bằng toán học, ta phải làm hai việc, một là
tìm ra một cái lý toán học có tính xuyên suốt phù hợp với vấn đề cần
khảo sát, hai là tìm giao điểm giữa cái lý ấy và thực tế để bảo đảm là
có sự phù hợp giữa lý thuyết và thực tế (trong toán học gọi là điều kiện
ban đầu hoặc điều kiện ngoại vi).
Bằng ngôn ngữ khoa học, có thể nói cái lý toán học của Tử Bình là luật
tuần hoàn của lục thập hoa giáp, và lý này được ghép vào thực tế bằng
cách chọn liên hệ tương đối giữa trái đất với mặt trời làm chủ điểm.
Câu hỏi là có cách nào vận dụng tính tuần hoàn của mặt trăng (mà khoa Tử
Bình đã phải lờ đi) vào bài toán số mệnh hay không? Câu trả lời là có,
và câu trả lời hùng hồn nhất mà ta biết thì chính là khoa Tử Vi vậy.
Tóm lại, Tử Vi là một cách giải bài toán số mệnh, nhưng khác với Tử Bình
ở chỗ là nó áp dụng lý tuần hoàn của mặt trăng vào bài toán số mệnh.
Cái giá mà nó phải trả là phải coi mỗi ngày là một phần tử của một chu
kỳ của mặt trăng. Gọi một chu kỳ của mặt trăng là một tháng thì yếu tố
ngày chỉ có thể lên đến tối đa là 29 hoặc 30 (ngày) nên không thể nào
thỏa cái lý của lục thập hoa giáp. Bởi vậy, Tử Vi không tính can chi của
ngày, chỉ tính ngày từ 1 đến 29 hoặc 30 mà thôi.
Tôi xin nhấm mạnh rằng Tử Vi bắt buộc phải coi lý tuần hoàn của mặt
trăng là quan trọng, tại sao thế? Thưa, vì đó là ưu điểm chính của nó so
với khoa Tử Bình. Giả như nó cũng không coi lý tuần hoàn của mặt trăng
là quan trọng (tức là chủ trương như khoa Tử Bình) thì chẳng có lý do gì
để nó có hy vọng chính xác tương đương với khoa Tử Bình, và như vậy thì
chẳng có lý do gì để sáng lập ra khoa Tử Vi cho mệt óc.
Phải lập luận dông dai vòng vo như thế để cốt lưu ý với quý vị nghiên
cứu rằng, xin đừng vội cho rằng tính tháng trong Tử Vi bằng tiết khí thì
chính xác hơn, bởi nếu tính như vậy là bỏ cái nền tảng của Tử Vi mà lấy
cái nền tảng của Tử Bình. Đây là trường hợp chỉ được chọn một trong hai
(chọn sai thì thành “râu ông nọ cắm cằm bà kia”), nên đừng nên mong là
nhờ định tháng bằng tiết khí mà Tử Vi sẽ chính xác hơn.
Hy vọng như vậy vấn đề “bất quá tiết” của Tử Vi đã được giải quyết bằng lý luận.
Ở trên ta thấy xét hiện tượng thật thì Tử Bình đã chọn mặt trời làm chủ
điểm và vì thế phải lờ mặt trăng đi. Còn Tử Vi thì ta biết đã chọn mặt
trăng làm chủ điểm, vậy còn liên hệ giữa mặt trời với trái đất trong
khoa Tử Vi thì sao? Để trả lời ta nhận xét:
1-Các giờ trong ngày không có vấn đề gì cả. Vẫn có thể dựa theo mặt trời.
2-Các ngày trong tháng dĩ nhiên phải theo mặt trăng.
3-Các tháng trong năm thì có vấn đề trầm trọng cần giải quyết. Vì coi
mặt trăng là chủ điểm thì năm phải có 12 hoặc 13 tháng, mà không thể
theo đúng chu kỳ của trái đất quanh mặt trời nữa. Nhưng nếu xử dụng 13
tháng thì lại có vấn đề với môi trường dùng để giải Tử Vi, tức là địa
bàn, vì địa bàn chỉ có 12 cung nên phải đổi 13 tháng thành 12, do đó
phải có tháng nhuận.
Các đề mục từ 1 đến 3 trên đây chẳng có gì mới lạ mà chính là kiến thức
cơ sở của khoa Tử Vi. Cần nhắc lại chỉ cốt để lưu ý với quý vị nghiên
cứu rằng Tử Vi từ xưa đến nay ở hoàn cảnh không mấy gọn gàng như vậy là
có lý do cả. Đừng tưởng sửa lại cho gọn gàng là giúp Tử Vi chính xác
hơn, e làm nó thiếu chính xác hơn là đằng khác.
(còn tiếp)
Cả hai môn Tử Vi và Tử Bình đều cố áp
dụng lý tuần hoàn đến mức tối đa. Càng nhiều tương ứng với các hiện
tượng tuần hoàn tự nhiên dĩ nhiên càng tốt.
-Tử Bình miễn cưỡng bỏ lý tuần hoàn của mặt trăng vì lý do đã trình bày
(giữa lý tuần hoàn nhất quán của lục thập hoa giáp và lý tuần hoàn của
mặt trăng phải chọn một bỏ một, quyết định bỏ mặt trăng). Vì Tử Vi thái
dụng lý tuần hoàn của mặt trăng và đạt nhiều thành công to lớn, ta biết
bỏ mặt trăng là một khuyết điểm lớn của khoa Tử Bình.
-Tử Vi thu nhập lý tuần hoàn của mặt trăng mà không phải bỏ lý tuần hoàn
của mặt trời; đây là một ưu điểm vì định giờ theo mặt trời là lý tuần
hoàn tự nhiên hơn hết (chắc chắn tự nhiên hơn là định giờ theo mặt
trăng) bởi vậy dĩ nhiên cách định giờ phải theo mặt trời. Một vòng tuần
hoàn của giờ thành ngày nên cách xác định khi nào đổi ngày dĩ nhiên cũng
theo mặt trời. Nhưng bao nhiêu ngày thành một tháng thì lại phải theo
mặt trăng, vì đó là ưu điểm to lớn nhất của Tử Vi so với Tử Bình. Mà đã
theo mặt trăng như vậy thì phải chịu tháng nhuận, không thể tránh được.
Lý do phải có tháng nhuận (thay vì thỉnh thoảng cho một năm có 13 tháng)
là vì Tử Vi muốn ghép tất cả mọi yếu tố vào địa bàn, mà địa bàn thì có
đúng 12 cung (và 12 cung này có lý của chúng, không đổi được).
Vậy khuyết điểm của Tử Vi là không áp dụng được lý lục thập hoa giáp một
cách nhất quán vào mọi đơn vị thời gian, chắc chắn phải là một nguồn
sai số, tháng nhuận chắc chắn cũng là một nguồn sai số.
Có thể thấy rằng cả hai môn Tử Vi và Tử Bình đều khiếm khuyết, và đây là
khiếm khuyết có tính cơ sở, tức là bất luận tiến bộ bao nhiêu khiếm
khuyết ấy vẫn còn.
Ở Đài Loan nhiều phái coi Tử Vi riêng, Tử Bình riêng (chú ý: Nghĩa là
coi riêng từng môn, không phải là dùng cách của Tử Vi để xem Tử Bình
hoặc ngược lại), rồi theo kinh nghiệm của thầy mà phối hợp kết quả của
hai môn (có điểm theo Tử Bình, có điểm theo Tử Vi, tùy kinh nghiệm của
thầy); đó là một cách bổ khuyết hai môn.
-Thái Âm chỉ tương ứng với mặt trăng (theo lý “vạn vật đồng nhất thể”)
nhưng không phải là mặt trăng. Dùng tiết khí hay tháng thật để luận Thái
Âm không quan trọng vì hai cách tính này sai số luôn luôn nhỏ hơn 1,
nhưng vì lý nhất quán khoa Tử Vi tất phải theo tháng thật (và chịu đựng
xác xuất sai trong tháng nhuận). Ngày thì buộc lòng phải theo ngày âm
lịch, vì đó chính là cơ sở của khoa Tử Vi (Thái Âm từ 1 đến rằm càng
ngày càng mạnh, sau đó yếu đi).
Vài dòng chia sẻ.
THẾ NÀO LÀ CÁCH TÍNH “GẦN ĐÚNG”?
Hình như nhóm chữ “cách tính gần đúng” mà
tôi xử dụng bị hiểu lầm là “cách tính ra kết quả gần đúng”, rồi từ đó
diễn giải thêm ra thành những kết quả lạ lùng, kỳ dị mà bản thân tôi
chẳng bao giờ tưởng tượng ra nổi.
Tôi chẳng hiểu tại sao khi bàn luận về
một chuyện hết sức cơ bản lại có sự hiểu lầm này, nhưng thiết nghĩ mọi
sự hiểu lầm đều nên được giải tỏa càng sớm càng tốt kẻo dần dần hiểu lầm
tưởng là hiểu thật.
Xin phép dùng tiếng Anh. Cách tính gần đúng là “approximation”.
Mục đích là tìm đáp số gần đúng nên mới
đặt ra cách tính gần đúng, nhưng đời này có khi lực bất tòng tâm, chẳng
phải cứ đặt ra cách tính gần đúng là sẽ được kết quả gần đúng!
Sau đây tôi xin trình bày tại sao “cách
tính gần đúng” chưa chắc phải cho kết quả gần đúng, nhiều khi sai rất
xa, có khi cho kết quả trái ngược lại ý ta là đằng khác.
Xin chú ý kỹ, kẻo sai lầm đáng tiếc.
A. ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG HẾT SỨC QUAN TRỌNG, KẺO SAI MỘT LY ĐI MỘT DẶM
Phép tính gần đúng chỉ có thể áp dụng trong điều kiện của nó, bằng không
thì kết quả chẳng có gì là gần đúng cả. Đây chính là một trường hợp của
ý nghĩa sai một ly đi một dặm.
Một thí dụ về phép tính gần đúng:
X= A + BC + DE (1)
Trong một điều kiện Alpha nào đó thì DE
nhỏ hơn hai số kia nhiều, nên (khi điều kiện Alpha được thỏa), ta nói
cách tính gần đúng ứng với (1) là:
X= A + BC (2)
Có thể thấy rằng nếu điều kiện Alpha không được thỏa mà áp dụng (2) thì có thể sẽ phạm lỗi sai một ly đi một dặm.
Tôi đã dùng thí dụ số học cốt cho mọi người dễ hiểu. Quý vị nào biết
giải phương trình vi phân thuộc dạng hết sức mẫn cảm (“very stiff
equations”) thì càng thấy rõ lý này hơn hết. Nhiều khi bỏ một chữ nhỏ
thôi (để có phép tính gần đúng) mà kết quả ra hoàn toàn khác hẳn. Đây
cũng là lý do tại sao khi dùng computer để giải phương trình vi phân
(một thí dụ thực tế khác của cách tính gần đúng) người ta phải rất cẩn
thận, kẻo kết quả ra hoàn toàn sai.
Các thí dụ này cho thấy tại sao “phép tính gần đúng” không chắc cho kết
quả gần đúng. Cường điệu hơn kết quả của phép tính đúng và phép tính gần
đúng có thể khác hẳn nhau. Ngược lại, khi thấy hai kết quả khác hẳn
nhau, đừng vội nói rằng chúng không thể là kết quả của hai phép tính gần
giống nhau.
B. DÙNG LƯỢNG ĐỂ ĐỊNH TÍNH GẦN ĐÚNG CÓ KHI VẪN SAI BÉT
Ngay cả khi tính ra gần đúng, kết quả vẫn có thể trái ngược. Một thí dụ
là trường hợp dùng phép tính gần đúng để định lượng, nhưng kết quả lại
thuộc dạng định tính.
Thí dụ: Dùng mô hình “gần đúng” để tiên đoán điểm, đoán được Phoenix
Suns 113-Lakers 110. Sự thật Phoenix 112 – Los Angeles 113. Phép tính
định lượng thì gần đúng (chỉ sai 0.9% cho đội Phoenix, 2.7% cho đội Los
Angeles). Nhưng kết quả thì sai bét vì đoán Phoenix thắng mà sự thật
Phoenix thua.
Cho nên:
1.-Ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương không có nghĩa âm dương có cái gì thì ngũ hành phải có một cái gần đúng như thế.
2.-Ngũ hành có vẻ khác hẳn âm dương không có nghĩa ngũ hành không thể là phép tính gần đúng của âm dương.
3.-Mặc dù là phép tính gần đúng của âm dương, ngũ hành có thể có trường hợp ra kết quả sai bét.
Đó là lý luận cơ bản của phép tính gần đúng. Xin lưu ý!
SO SÁNH BA CHIÈU KHÔNG GIAN THEO NHƯ
CÁI NHÌN CỦA CẬU BÉ TRONG “CHIẾC ÁO MỚI CỦA NHÀ VUA”
Năm 1989, ông Roger Penrose, một tiến sĩ
giáo sư toán lừng danh thế giới của nước Anh, ra quyển “Bộ óc mới của
nhà vua” (The Emperor’s New Mind). Đây là một quyển sách bán rất chạy
nhưng tương đối khó đọc vì xử dụng khá nhiều kiến thức toán và vật lý
cao cấp. Đại khái ông Penrose tỏ ý không bằng lòng với hiện trạng của
khoa học nói chung và khoa vật lý nói riêng.
Nhưng tại sao lại đặt tên sách là “Bộ óc mới của nhà vua”? Nguyên là sau
khi đi vào rất nhiều chi tiết nhiêu khê, có khi công thức toán chằng
chịt nguyên trang, ở cuối sách ông Penrose đưa ra một điểm hết sức triết
lý, là có thể sự bế tắc hiện tại của khoa học một phần là do hoàn cảnh
đã trở thành tương tự như truyện cổ tích “chiếc áo mới của nhà vua”, với
những người thợ may nổi tiếng trầm trồ khen ngợi chiếc áo vô hình được
thay bằng các khoa học gia thời nay. Vấn đề của các khoa học gia, ông
Penrose nói, là có thể vì biết quá nhiều mà họ trở thành thiên kiến, nên
cũng như trong truyện cổ tích “chiếc áo mới của nhà vua” người có đáp
số đúng có lẽ phải như cậu bé, thứ nhất nhãn quan chưa bị những kiến
thức đã học được từ trường sở hoặc cuộc đời làm cho vặn vẹo, thứ hai đầu
óc thơ ngây nên chẳng biết sợ những lời chê bai, cứ thấy sao là nói
vậy.
Lấy cảm hứng từ triết lý ấy, tôi xin mời các độc giả có hứng thú cố đóng
vai trò của một cậu bé không thành kiến, tức là tôi yêu cầu quý vị hãy
bỏ gần hết tất cả những gì quý vị đã học được trong khoa vật lý, kể cả
vật lý Newton.
Tôi chỉ yêu cầu quý vị chấp nhận một điều giản dị là mọi vật thể đều có
thể được diễn tả bằng các điểm trên một trục tọa độ gồm ba trục là x, y,
z hỗ tương thẳng góc với nhau. Các vị nào không tin thì làm thử thí
nghiệm này: Chọn một hình phẳng nào đó, bỏ nó lên một trục x,y; ghi
xuống tọa độ của càng nhiều điểm càng tốt vào một tờ giấy, rồi đưa tờ
giấy nhờ một anh cán sự kỹ nghệ họa vẽ xem ra hình thù gì. Tôi dám bảo
đảm quý vị sẽ thấy hình vẽ ấy diễn tả khá đúng vật thể mà quý vị đã
chọn. Thí nghiệm này tôi chọn hai chiều x, y thôi cho giản dị, nhưng
thêm chiều thứ ba là z thì kết quả vẫn không đổi.
Kế tiếp tôi sẽ trình bày với quý vị một bảng kết quả của một thí nghiệm nhiều bước, và yêu cầu quý vị trả lời một câu hỏi.
Đối tượng của thí nghiệm này là một khối vuông mỗi cạnh 100m, với ba
cạnh X, Y, Z lần lượt song song với các trục x, y, z của trục tọa độ.
Nhờ lối xếp vuông vắn này, đo hình chiếu của hình vuông lên trục x ta
được cạnh X, đo hình chiếu của hình vuông trên trục y ta được cạnh Y, đo
hình chiếu của hình vuông trên trục z ta được cạnh Z.
Các bước của thí nghiệm như sau:
0. Giữ khối vuông đứng im không chuyển động, đo ba hình chiếu để được ba cạnh X, Y, Z.
1. Cho khối vuông chuyển động theo chiều x với vận tốc bằng phân nửa vận
tốc ánh sáng. Đo ba hình chiếu để được chiều dài của ba cạnh X, Y, Z.
2. Tương tự 1 kể trên, nhưng cho khối vuông chuyển động trong chiều y (thay vì x).
3. Tương tự 1 kể trên, nhưng cho khối vuông chuyển động trong chiều z (thay vì x).
Sau đây là bảng kết quả thí nghiệm, xin trình bày cùng quý vị:
0. Không chuyển động : X=100m, Y=100m, Z=100m
1. Chuyển động chiều x: X= 87m, Y=100m, Z=100m
2. Chuyển động chiều y: X=100m, Y= 87m, Z=100m
3. Chuyển động chiều z: X=100m, Y=100m, Z= 87m
Định nghĩa: Nếu chuyển động theo chiều x
thì x là chiều chuyển động, y và z là hai chiều còn lại. Hai trường hợp
khác lý tương tự.
CÂU HỎI: Chiều chuyển động có giống hai chiều còn lại hay không?
Xin độc giả cho biết câu trả lời theo cái
nhìn của cậu bé ngây thơ (và nếu hứng thú thì cứ tự nhiên thêm câu trả
lời của cá nhân mình, nếu khác với câu trả lời của cậu bé ngây thơ).
Riêng tôi thì đã biết cậu bé trong tôi trả lời như thế nào rồi.
Chúng ta biết rằng quy luật thịnh suy và biến hóa của âm dương, quy luật
thắng phục và sinh khắc của ngũ hành theo luật tuần hoàn không đầu cuối
chi phối vạn vật trong gầm trời. Ví dụ:
1. Trong một năm bốn mùa xuân hạ thu đông thứ tự tuần hoàn : nếu
phân âm dương thì mùa xuân hạ là dương còn mùa thu đông là âm; nếu phân
ngũ hành thì mùa xuân mộc, mùa hạ hỏa, mùa thu kim và mùa đông thủy.
2. Trong một ngày thì ban ngày là dương còn ban đêm là âm; từ giờ tý
nhất dương sinh ra mà tý thuộc thủy, từ giờ ngọ nhất âm sinh mà ngọ
thuộc hỏa.
3. Trong hệ can chi tuần hoàn thì thiên can thuộc dương còn địa chi
thuộc âm; trong thiên can lại có ngũ hành âm và ngũ hành dương, trong
địa chi cũng được phân thành ngũ hành âm và ngũ hành dương.
4. Và trong họa đồ bát quái tuần hoàn cũng vậy.
Vậy theo trên có thể tách âm dương ra
khỏi ngũ hành và ngũ hành ra khỏi âm dương được không, sau đem hai mảng
đó so sánh với nhau rồi cho mảng này là gần đúng của mảng kia.
Theo PV thì âm dương ngũ hành bất khả
phân ly . Và nhận thức không có âm dương ngoài ngũ hành cũng như không
có ngũ hành ngoài âm dương.
Tối hậu bằng lô gích ta biết khoa học chỉ
có thể có một thuyết. Tại sao thế? Vì nếu có hai thuyết thì hai thuyết
này hoặc mâu thuẫn nhau hoặc bố cứu cho nhau, nếu mâu thuẫn nhau thì tối
thiểu một phải sai loại đi còn một, nếu bổ cứu nhau thì cộng lại chính
là một thuyết xuyên suốt. Cứ thế mà lý luận dần đến tận cùng sẽ suy ra
tối hậu vũ trụ vật chất chỉ có thể có một thuyết mà thôi.
Gọi thuyết tối hậu là A, các thuyết khác chỉ có thể là một mặt nào đó
của A hoặc là phép tính gần đúng của A. Thuyết ấy là gì? Tôi cho là
thuyết âm dương. Nếu thuyết âm dương đúng là thuyết tối hậu thì nó phải
hàm chứa tất cả mọi thuyết còn lại.
Trường hợp ngũ hành, tôi tính ra thấy nó là một thuyết gần đúng. Tứ nguyên cũng là một thuyết gần đúng.
Dễ hiểu vì:
Sinh khắc là liên hệ một chiều chỉ ứng với một loại hiện tượng, dù diễn
giải soi rộng thế nào cũng không thể bao hàm các liên hệ hai chiều như
“yêu nhau” chẳng hạn. Thuyết ngũ hành cơ bản chỉ có sinh khắc dĩ nhiên
thiếu sót.
Tương tự, hợp xung là liên hệ hai chiều chỉ ứng với một loại hiện tượng,
dù diễn giải soi rộng bao nhiêu cũng không thể bao hàm các liêh hệ một
chiều như “thắng thua” chẳng hạn. Thuyết tứ nguyên cơ bản chỉ có hợp
xung dĩ nhiên thiếu sót.
Thiếu sót thì chỉ có thể “gần đúng”, chẳng thể nào “đúng” đuợc.
Người đông phương bảo rằng âm dương ngũ hành bất khả phân thì người tây
phương sẽ bất đồng ý vì họ chẳng hề có thuyết ngũ hành mà vẫn phát triển
về huyền học như thường. Đừng quên như thế!
Đông phương không cần thuyết tứ nguyên mà huyền học vẫn phát triển, tại sao? Tứ nguyên có thật là thuyết tất yếu không?
Tây phương không cần thuyết ngũ hành mà huyền học vẫn phát triển, tại sao? Ngũ hành có thật là thuyết tất yếu không?
Nhắc lại câu trả lời của tôi: Ngũ hành và tứ nguyên đều không phải là
tất yếu! Chúng chỉ là hai cách giải gần đúng khác nhau khởi từ cùng một
thuyết lớn trùm ở trên. Thuyết ấy chính là thuyết âm dương.
Nên tôi phân định:
Huyền học đông phương: Lấy âm dương làm nền, lấy ngũ hành trợ lực, thành hệ thống thực dụng gọi là “âm dương ngũ hành”.
Huyền học tây phương: Vẫn lấy âm dương làm nền, dùng tứ nguyên (đất nước
gió lửa hoặc đất nước khí lửa cũng thế) mà thành hệ thống thực dụng.
Vì thực dụng khác biệt (ngũ hành / tứ nguyên), mỗi bên có sở trường và sở đoản khác nhau.
Xin thêm rằng tôi không chỉ đoán mò mà từ nguyên lý cơ bản lập ra mô
hình của từng trường hợp, rồi thấy một mô hình phản ảnh thuyết âm dương,
một mô hình phản ảnh thuyết ngũ hành, một mô hình phản ảnh thuyết tứ
nguyên nên mới dám nói như thế.
Chẳng hạn, như đã trình bày ỏ một bài trước, quý vị thử hai loại hình
cầu màu sậm là âm, màu nhạt là dương cho chúng gộp vào nhau thành hình
tứ diện đều (là hình thể cân xứng nhất trong ba chiểu có thể tạo dựng
bằng các khối cầu) để đại biểu thực thể hiện hữu, quý vị sẽ thấy có đúng
5 thực thể là:
AAAA (thủy)
ADDD
AADD (thổ)
AAAD
DDDD (hỏa)
Có thể thấy mô hình này dẫn đến thuyết ngũ hành.
Vài dòng chia sẻ.
VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC?
2. Lý hình thành của 14 chính tinh
Đọc các sách cổ cũng như sách gần đây ta thấy đủ loại thuyết cố giải
thích sự hình thành của 14 chính tinh, nhưng thú thật khi đọc các thuyết
ấy tôi lại nhớ một thí dụ mà ông giáo sư toán đệ nhất của tôi là CAH
hay dùng để chỉ trích các cách chứng minh tùy hứng:
“Hôm nay trời sáng, nên hai vòng tròn trực giao”
Tức là -trên cơ sở khoa học- chẳng thấy lô gích ở đâu cả!
Độc giả nào đã đọc sách của ông Tạ Phồn Trị có lẽ cũng sẽ có cảm giác
tương tự là sách này cũng chẳng rõ lô gích ở đâu, thế nhưng bản thân tôi
thấy một khác biệt quan trọng, là mặc dùng không đặt nặng lô gích trong
cách viết, những tái khám phá của ông Trị lại rất hợp lô gích, nghĩa là
có thể được xếp đặt lại đề phù hợp với lô gích.
Về nguồn gốc 14 chính tinh ông Trị bắt đầu bằng cách giải cái lý của cặp
Nhật Nguyệt với câu ‘phán’ theo kiểu sách cổ, xin dịch như sau “kỳ thật
Nhật, Nguyệt chính là đại biểu của giờ và tháng” rồi ông đưa lý thiên
văn cho thấy là nếu bắt đầu với tháng giêng giờ Tí, sau đó muốn thấy vũ
trụ ở chỗ cũ tất tháng hai phải là giờ Hợi, tháng ba giờ Tuất v.v… chính
là các cặp vị trí tương ứng của hai sao Âm Dương.
Mỗi lần ghi xuống tái khám phá này, tôi lại thêm một lần thán phục cái
lý của người xưa (tức người lập ra Tử Vi) và một lần cám ơn ông Trị đã
nhìn ra sự kiện này, vì tôi cho nó là chiếc chìa khóa quan trọng nhất
trong cuộc hành trình tìm lại cái gốc khoa học của môn Tử Vi.
Sau đây là phần lý luận thêm của tôi để đặt cái tái khám phá của ông Trị vào khuôn mẫu khoa học.
Nhận xét sơ khởi:
1. Địa bàn thực tính là một hình tròn gắn vào địa cầu.
2. Xét giờ thì giờ nào cung ấy quay về phía mặt trời. Thí dụ giờ Tí tất
cung Tí của địa bàn quay về mặt trời. Vì vậy mỗi cung của địa bàn có
tương ứng tự nhiên với giờ.
3. Xét tháng thì một khi đã chọn một giờ cố định (như giờ Tí) thì tháng
nào cung ấy quay về một phương cố định trong vũ trụ. Như tháng giờ Tí
một ngày nào đó của tháng 1 cung Dần quay về một phương X nào đó thì đợi
đúng một tháng sau tất cung quay về phương X phải là cung Mão.
Những kết quả trên đây là tái khám phá của tôi, đã giải thích ở một nơi khác, ở đây không lập lại.
VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC (tiếp theo)
Từ đó có thể thấy rằng:
1. Địa bàn ứng với giờ và tháng: Mỗi cung địa bàn tương ứng với một giờ, đồng thời tương ứng với một tháng.
2. Thuận lý và nghịch lý trên địa bàn: Vì các cung cứ đi thuận theo giờ
mà hướng về phía mặt trời, đi thuận theo tháng mà hướng về một phương cố
định trong vũ trụ, chiều thuận trên địa bàn (chiều kim đồng hồ) chính
là chiều thời gian. Thời gian chỉ đi tới mà không đi lùi, nên đi thuận
trên địa bàn hợp lý hơn đi nghịch, do đó -áp dụng thuyết âm dương- ta
nói đi theo chiều thuận của địa bàn là “thuận lý”, đi ngược chiều của
địa bàn là “nghịch lý”. Nói cách khác, trên địa bàn “thuận lý” có nghĩa
là đi theo chiều kim đồng hồ, “nghịch lý” là đi ngược chiều kim đồng hồ.
Đó là xét tháng và giờ riêng rẽ. Trường hợp phối hợp tháng giờ thì phức tạp hơn, sẽ bàn sau.
3. Nền tảng toàn không của khoa Tử Vi: Theo một tiền đề của thuyết âm
dương (dưới nhãn quan khoa học) thì mọi hiện tượng trong vũ trụ này đều
là giả tướng do âm dương trộn lộn với nhau mà thành, nhưng tổng số thành
của âm dương trong vũ trụ thì chỉ là một con số không.
Áp dụng lý vạn vật đồng nhất thể để giả sử con người là một “tiểu vũ
trụ”. Giả sử này chỉ có thể gần đúng vì con người có liên hệ mật thiết
với các phần tử khác của vũ trụ (và có thể với các vũ trụ ngoài vũ trụ
này nữa), nhưng ta buộc lòng phải dùng nó vì nó vẫn cho kết quả chính
xác nhất có thể đạt được trong khả năng tầm thường của chúng ta. Coi con
người là một tiểu vũ trụ và dùng địa bàn để biểu diễn vận mệnh con
người thì tổng số thành âm dương trên địa bàn (tức lá số) phải bằng
không.
Ý nghĩa thực tế của điều kiện này là: Trên lá số mọi yếu tố đều phải có
lực đối trọng, sao cho tổng thành âm dương gần bằng zéro.
4. Áp dụng lý toàn không vào Tử Vi: Ở trên ta đã trình bày cái cơ sở của
lý toàn không, bây giờ ta sẽ luận cách áp dụng nó vào địa bàn.
Tứ nguyên chính là tứ đại. Khi đức phật
ra đời thuyết này đã thịnh hành rồi. Hiện vẫn có một số nhà nghiên cứu
cho rằng thuyết tứ đại (tứ nguyên) khởi từ Ấn Độ rồi truyền sang Trung
Đông (thay vì từ Trung Đông truyền sang Ấn Độ).
Phật giáo chỉ nói đến tứ đại một cách biểu tượng (đại biểu vật chất),
trong khi chiêm tinh và các khoa mệnh lý khác của tây phương thì coi tứ
nguyên là cái nền để phát triển ra.
Thí dụ trong chiêm tinh tây phương thì:
Đất (Earth): Capricorn (cardinal), Taurus (fixed), Virgo (mutable).
Nước (Water): Cancer (cardinal), Scorpio (fixed), Pisces (mutable).
Gió (Wind / Air): Libra (cardinal), Aquarius (fixed), Gemini (mutable).
Lửa (Fire): Aries (cardinal), Leo (fixed), Sagittarius (mutable).
Đây là điểm kỳ diệu: Cardinal có tính tương tự “sinh”, Fixed có tính
tương tự “vượng”, Mutable có tính tương tự “mộ”. Xếp theo thứ tự khởi từ
Aries ta được 12 cung hoàng đạo:
1. Aries (Dương Cưu): Lửa sinh
2. Taurus (Kim Ngưu): Đất vượng
3. Gemini (Song Nam): Gió mộ
4. Cancer (Bắc Giải): Nước sinh
5. Leo (Hài Sư): Lửa vượng
6. Virgo (Xử Nữ): Đất mộ
7. Libra (Thiên Xứng): Gió sinh
8. Scorpio (Hổ Cáp): Nước vượng
9. Sagittarius (Nhân Mã): Lửa mộ
10. Capricorn (Bạch Dương): Đất sinh
11. Aquarius (Bảo Bình): Gió vượng
12. Pisces (Song Ngư): Nước mộ
Kỳ diệu thay, lý này y hệt như phép tam hợp hành của ngũ hành.
Thế nên càng ngày tôi càng tin vào giả thuyết gấn đây của nhiều nhà
nghiên cứu lịch sử mệnh lý người Đài Loan và Hoa lục, rằng ngũ hành là
do tứ nguyên cải biến mà ra (Thí dụ: Xem sách “Đường Tống âm dương ngũ hành luận tập”, La Quế Thành, Văn Nguyên Thư Cục, Đài Bắc, tái bản năm 1992).
Vài dòng đóng góp.
T.B. Nhưng vì có 4 yếu tố thay vì 5, tứ
nguyên phải dùng liên hệ khác với sinh khắc, liên hệ ấy là “hợp” và
“không hợp” hoặc “hợp” và “xung”. Chú ý rằng sinh khắc là liên hệ một
chiều, hợp xung là liên hệ hại chiều. Sự khác biệt về liên hệ dẫn đến
kết quả khác hẳn nhau. Như trên địa bàn của mệnh lý Á đông, vì lý ngũ
hành mà hai cung xung có tương quan khắc, trong khi đó trên tinh bàn
(thiên bàn) của chiêm tinh tây phương, vì lý tứ nguyên mà hai cung xung
có liên hệ “hợp” (thay vì “xung” nếu suy diễn giản dị từ lý ngũ hành rồi
vội vàng áp dụng sang một cách sai lầm).
Kết quả: Đất Nước hợp nhau, Gió Lửa hợp nhau, Đất Nước “xung” với Gió
Lửa và ngược lại. Tức là mỗi cung “xung” với hai cung bênh cạnh nó và
“hợp” với cung đối diện nó (tức cung mà ta thường gọi là xung chiếu).
VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC (tiếp theo)
Áp dụng luật toàn không vào địa bàn
Hãy tưởng tượng 12 cung địa bàn như một cái nồi nước, bản chất không có
mùi vị gì cả, còn người đặt ra khoa Tử Vi như ông đầu bếp. Bỏ bất cứ thứ
gì vào cái nồi địa bàn sẽ làm cho tối thiểu một góc nào đó của địa bàn
có mùi vị, cho nên nếu đã bỏ gia vị A vào thì sau đó phải tìm cách trung
hòa bằng cách bỏ thêm gia vị B. Trong trường hợp B không đủ trung hòa A
thì không những thêm B lại phải thêm C, có khi phải thêm D, E, F v.v…
Trung hòa xong A rồi thấy vẫn chưa được thì bỏ AA vào, bỏ AA vào thì lại
phải trung hòa nó bằng BB, nếu BB không trung hòa nổi AA thì thêm CC,
có khi phải thêm DD, EE, FF v.v… cứ thế cứ thế.
Theo quy luật này thì các sao trên lá số Tử Vi không thể nào đặt ra tùy
hứng hay cứ nhắm mắt dựa theo các khoa cũ gắn vào địa bàn, mà phải có
một thứ tự, quy luật nhất quán.
Chúng ta hãy bắt đầu.
Tại sao cái lý của khoa Tử Vi phải bắt đầu với cặp Âm Dương?
Bước đầu của việc thiết lập lá số Tử Vi bằng phương pháp khoa học ví như
việc bỏ gia vị A vào cái nồi nước địa bàn còn đang trống rỗng. Vấn đề
của người đầu bếp là bỏ gia vị nào vào nồi. Vấn đề của người lập ra khoa
Tử Vi là bắt đầu với sao gì, và tại sao lại bắt đầu như thế?
Câu trả lời là cặp Âm Dương. Ấy bởi vì cặp Âm Dương đại biểu một cặp
tháng giờ lý thuyết thỏa điều kiện cơ bản là giữ phương của trái đất y
như lúc tháng giêng giờ Tí. Nhưng tại sao lại muốn giữ phương của trái
đất y như lúc tháng giêng giờ Tí. Thưa vì bài toán Tử Vi giả sử rằng
thời điểm khai sinh đã chứa tín hiệu họa phúc của đời người, thời điểm
khai sinh của con người thì tương ứng với lúc mùa xuân bắt đầu, tức là
tháng giêng giờ Tí, nên vì lý vạn vật đồng nhất thể phải giữ trái đất ở
phương hướng y như lúc khai sinh của nó, và cặp Âm Dương là công cụ bảo
đảm rằng điều kiện ấy luôn luôn được thỏa.
Bởi vậy Tử Vi bắt đầu với cặp Âm Dương mà không phải bất cứ sao nào khác (kể cả cặp Tử Phủ).
Mỗi áp dụng khoa học đều phải bắt đầu ở một điểm mấu chốt. Từ trước đến
giờ đọc các sách Tử Vi tôi đều chỉ thấy cành lá, ngọn, không thấy gốc.
Đến giờ phút này tôi vẫn chỉ thấy thuyết trên đây giải thích cái lý của
cặp Âm Dương hợp lý hơn hết, chưa kể là nó thỏa tính tất yếu, một tính
tối quan trọng của mọi công trình khoa học.
Chú thích tại chỗ: Tôi đã từng
đọc thấy rải rác trên các mạng vài vị phê bình cái lý của cặp Âm Dương
do ông Trị đề xướng. Vấn đề là các lời phê bình này đều có tính đại
khái, không đưa lập luận. Vì đang khảo sát vấn đề trên nền tảng khoa
học, tôi buộc lòng phải coi đây là những lời phê bình cho vui, có tính
trà dư tửu hậu.
Các vị nào cho rằng thuyết về cặp Âm Dương của ông Trị sai tôi đề nghị
các vị ấy ghi rõ lập luận của mình ra. Các vị nào có sẵn thuyết về cặp
Âm Dương tôi đề nghị tự nhìn lại thuyết của mình, xem có nền tảng khoa
học gì không, trước khi làm chuyện phê bình.
Còn các vị nào bất chấp khoa học thì xin cứ tiếp tục giữ quan điểm. Tôi xin dĩ hòa vi quý và không bàn đến tử vi với các vị ấy.
VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC (tiếp theo)
Tính “giản dị” của dịch lý, khoa học và bài toán Tử Vi
Cặp Âm Dương cũng như gia vị A cho cái nồi nước Tử Vi mùi vị đầu tiên
của nó. Trước khi làm việc trung hòa gia vị A ta cần xét lại xem còn có
đặc điểm quan trọng nào của thiên nhiên mà cặp Âm Dương không phản ảnh
được hay không. Kiểm soát lại ta sẽ thấy đó là mùa màng trên trái đất.
Thí dụ tháng 2 là tiết xuân phân trời đất thái hòa tươi đẹp, hoàn cảnh
của Âm Dương là Âm (tháng) cư Mão, Dương (giờ) cư Hợi. Giờ Hợi của tháng
2 thái hòa chẳng thấy đẹp đẽ ở chỗ nào cả.
Bởi thế phải thêm sao để phản ảnh đúng đắn mùa màng trên trái đất. Luật
thêm sao phải có tính khoa học, tức là phải có tính giản dị.
Có độc giả sẽ thắc mắc tại sao lại có điều kiện “giản dị” kỳ cục này.
Đây là một vấn đề có tính triết lý hết sức lý thú. Luận về dịch, ta đã
nghe “dịch có ba nghĩa: Biến dịch, bất dịch, và giản dịch”. Biến dịch
thì chính là ý nghĩa cơ bản của dịch nên không cần nói đến. Bất dịch đây
có nghĩa là sự biến đổi (dịch) không phải tùy hứng mà phải theo những
quy luật bất biến (tức là có tính khoa học).
Riêng về “giản dịch” thì tôi chưa thấy sách nào luận cả (chỉ đưa ý nghĩa
là “phải giản dị” mới đúng), nên nhân đây lạm bàn. Nguyên “dịch” và
“dị” chữ Hán viết y hệt nhau, nên “giản dịch” chính là “giản dị”. Tại
sao “giản dị” lại dính líu đến dịch? Có lẽ cách diễn giải hay nhất là
mượn một tư triết lý tương đồng của tây phương, gọi là “dao cạo Occam”.
Triết lý “dao cạo Occam” nói rằng khi lập thuyết, nếu phải chọn giữa vài
ba thuyết cùng giải thích được một vấn đề thì thuyết nên chọn phải là
thuyết giản dị nhất. Nhìn từ một mặt khác, nếu lời giải thích của ta cho
một vấn đề quá rắc rối thì có xác xuất cao là lời giải thích ấy sai.
Trong phạm vi của bài viết này tôi sẽ không luận tới cái lý đằng sau
“dao cạo Occam”, chỉ nhấn mạnh rằng nó đã trở thành một khuôn vàng thước
ngọc cho khoa học tây phương.
Tôi cho rằng đây chính là ý nghĩa của hai chữ “giản dị” trong dịch lý.
Tuân theo khuôn vàng thước ngọc “giản dị” ta sẽ tìm cách giản dị nhất để phản ảnh mùa màng trên trái đất, rồi sẽ tính sau.
Dùng lý “giản dị” để thêm cặp sao Tử Phủ
Lý “giản dị” cộng với hoàn cảnh sẵn có (cặp Âm Dương) dẫn đến sự hình
thành của cặp sao Tử Phủ. Cặp này thỏa tính giản dị vì chỉ cần nhìn tính
tụ tán của chúng ta biết ngay khí hậu lúc nào thái hòa, lúc nào khắc
nghiệt. Tức là chúng giúp ta diễn tả hoàn cảnh của địa cầu.
Cái lý chi tiết dẫn đến cặp Tử Phủ dĩ nhiên dài dòng hơn thế nhiều,
nhưng ở đây tôi chỉ chú trọng đến tính tất yếu có tính cơ sở của khoa Tử
Vi, nên sẽ không vào chi tiết.
Cần nói rằng lý “giản dị” trên đây của cặp Tử Phủ là do tôi đề xướng, vì
ông Trị cho rằng cặp Tử Phủ ứng với hai sao Phá Quân (trong chòm Bắc
Đẩu) và Long Đầu. (Tôi đã phê bình ý kiến này của ông Trị trong một bài
trước đây, nên không lập lại).
Dùng lý “giản dị” và “quân bình” để thêm 10 chính tinh còn lại
Thế nhưng thêm cặp Tử Phủ rồi vẫn không ổn lắm vì nếu xét toàn thể địa
bàn thì hoàn cảnh thái hòa của tháng 2 (xuân phân) và tháng 8 (thu phân)
không thấy khác gì cảnh cực đoan của tháng 5 (hạ chí) và tháng 11 (đông
chí).
Cách giải quyết giản dị nhất là thêm một số sao để cho:
1-Tháng 2 và tháng 8 mọi cung đều có sao, phản ảnh cảnh bình hòa của trái đất.
2-Tháng 5 và tháng 11 số cung có hai sao và không sao đạt mức tối đa, phản ảnh cảnh cực đoan của trái đất.
Xem lại tháng 2 (tức Thái Âm cư Mão) thấy còn 9 cung trống. Vì đòi hỏi
âm dương số sao thêm phải chẵn, tức phải là 10, 12, 14 v.v… Vì đòi hỏi
giản dị phải chọn 10. Tổng số chính tinh do đó là 4+10=14.
Vậy là giải thích được tại sao có 14 chính tinh một cách hết sức giản
dị, chẳng cần phải mượn câu này câu nọ của “thánh nhân” hoặc đưa ra một
lý do mơ hồ nào đó để rồi tranh cãi chẳng bao giờ chấm dứt.
Còn tại sao chùm Tử Vi có 6 sao, chùm Thiên Phủ có 8 sao, tại sao sao X ở
trong chùm Tử Vi, sao Y trong chùm Thiên Phủ v.v… đều là những kết quả
tất yếu có thể suy ra được từ lý âm dương và hai điều kiện kể trên. Ở
đây chỉ bàn cái cơ sở của khoa Tử Vi, nên không nói đến.
Tự trong nội bộ 14 chính tinh phải thỏa lý “toàn không”, đây là một mấu
chốt quan trọng của bài toán Tử Vi. Phối hợp mấu chốt này với tính xung
hợp của địa bàn (không luận trong loạt bài này) thì có thể suy ra tính
đối đãi của một số sao, tức là đạt được bước đầu trong việc xác định cá
tính của 14 chính tinh.
Nhưng bước đầu ấy không đủ để xác định cá tính của 14 chính tinh.
Bước tiến quan trọng kế tiếp của bài toán Tử Vi là luận ra sự hiện hữu của tứ Hóa.
VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC (tiếp theo)
Ý nghĩa của 14 chính tinh từ đâu ra?
Nguồn gốc của chính tinh có rất nhiều thuyết. Cá nhân tôi cho là đa số
các thuyết này có tính “ráp nối” tức là được thiết lập một cách tùy
hứng, nhưng dĩ nhiên người tin thuyết X phải cho thuyết X là đúng. Từ
trước đến nay khuynh hướng chung là nhìn Tử Vi bằng con mắt huyền học
nên không có tiêu chuẩn nào rõ rệt để biết thuyết nào đúng hay sai thành
ra chỉ có cách là mỗi người giữ ý của riêng mình.
Nhưng một khi nhìn vấn đề bằng con mắt khoa học thì sẽ nhận ra điểm
chung của các thuyết này là chúng không có manh mối rõ rệt nào có thể
giúp ta suy ra tính chất của 14 chính tinh.
Giả như hỏi:
-Tại sao Tử Vi là sao tôn quý nhất, mà không phải là Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân v.v…
-Tại sao Cự Môn là ám tinh?
-Tại sao Tham Lang là sao chính đào hoa?
-Tại sao Thiên Lương có tính “thày đời”?
v.v… và nhiều tính chất khác của 14 chính tinh được ghi rõ trong sách vở thì tôi cho là các thuyết ấy sẽ đều không trả lời được.
“Trả lời được” ở đây phải hiểu theo nghĩa nhất quán, bởi có rất nhiều
thuyết giải thích được một vài điểm nên mới thịnh hành; vấn đề là có
giải thích được một số phần trăm đáng kể, như 80, 90% các điểm hay
không?Nếu độc giả nào biết một thuyết -ngoài thuyết của ông Trị-
giải thích được một số phần trăm đáng kể các tính chất của 14 chính
tinh thì xin cho tôi biết vì đó quả là một cơ hội học hỏi, mở mắt cho
tôi.
Một trong những ưu điểm lớn mà tôi nhận thấy trong thuyết của ông Tạ
Phồn Trị là ta có thể nương theo nó để suy ra tính chất của 14 chính
tinh một cách thứ tự lớp lang, tức là “có khoa học”.
Tự trong nội bộ 14 chính tinh phải thỏa lý “toàn không”, đây là một mấu
chốt quan trọng của bài toán Tử Vi. Phối hợp mấu chốt này với tính xung
hợp của địa bàn (không luận trong loạt bài này) thì có thể suy ra tính
đối đãi của một số sao, tức là đạt được bước đầu trong việc xác định cá
tính của 14 chính tinh.
Nhưng bước đầu ấy không đủ để xác định cá tính của 14 chính tinh vì nó
chỉ là… bước đầu. Phương pháp của Tử Vi (mà tôi tình cờ tái khám phá ra)
là cứ mỗi lần thêm một bài toán là mỗi lần xét lại lý toàn không, một
lần tìm thêm ra một vài tính chất của chính tinh. Nói theo toán học,
chính tinh giữ vai trò của những yếu tố điều chỉnh (optimization
factors) trong bài toán tử vi cốt cho lý “toàn không” được thỏa. Giải
xong hết các con toán cần thiết của Tử Vi rồi thì thấy đủ mọi mặt của
các yếu tố điều chỉnh, tức là định được mọi đặc tính của 14 chính tinh
như chúng ta đã biết.
Đi vào thực tế, từ cách hình thành ta đã thấy:
1. Bốn sao Âm Dương Tử Phủ (được đặt ra để phản ảnh vũ trụ và hoàn cảnh
của địa cầu) phải khác với 10 sao còn lại (được đặt ra để lý quân bình
đưọc thỏa).
2. Tử Phủ có liên hệ thực tế rõ rệt (dễ thấy) với hoàn cảnh nhìn thấy
trên mặt đất, trong khi Âm Dương có liên hệ (khó thấy) với phần vũ trụ
bên ngoài trái đất.
Từ đó có thể suy diễn ra một số tính chất đã biết của 14 chính tinh (và
chính là lý do tại sao tôi dám nói Âm Dương Tử Phủ là bốn đế tinh, Tử
Phủ lãnh đạo nhóm sao động, Âm Dương lãnh đạo nhóm sao tĩnh).
Từ các luật nhị hợp lục hại, liên hệ hợp xung trên địa bàn v.v… lại suy thêm một số tính chất nữa.
Một số tính chất quan trọng của chính tinh được suy ra từ bài toán kế tiếp, đó là bài toán tứ Hóa.
(còn tiếp)
VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC (tiếp theo)
Tại sao tứ Hóa được định bằng can năm? Tứ Hóa có tác dụng gì?
Xem lại các yếu tố được dùng để xác định vị trí 14 chính tinh ta thấy:
-Tháng và giờ (dùng để xác định vị trí cung mệnh, tức là địa chi của cung mệnh, trên địa bàn).
-Can của các tháng (dùng để xác định can của cung mệnh, rồi phối hợp với chi cung mệnh cho ngũ hành nạp âm, suy ra cục số).
-Ngày sinh (phối hợp với cục số để định vị trí sao Tử Vi).
Tóm lại, thấy có can tháng, chi tháng, ngày, giờ. Tức là mọi yếu tố liên
hệ đến tháng ngày giờ đều được xử dụng cả, nhưng yếu tố năm thì hoàn
toàn vắng bóng.
Đây là một sự tình cờ hay là hữu ý? Tôi cho rằng hoàn toàn hữu ý. Rõ
ràng hơn, tôi cho rằng bài toán Tử Vi được phân ra làm hai vế, một vế lá
“ta”, một vế là “ngoại cảnh”. Vế “ta” gồm tháng, ngày, giờ, vế “ngoại
cảnh” chỉ có năm mà thôi.
Tôi sẽ trở lại vấn đề này trong một dịp khác. Ở đây chỉ muốn đưa ra luận
đề, để có thể tiếp tục đi tới sau khi đã có 14 chính tinh. Theo luận đề
này (mà tôi đề nghị) thì 14 chính tinh đại biểu “ta”, sự kiện này chỉ
ghi ra cho đầy đủ bởi nó chẳng có gì mới lạ (có lẽ bất cứ ai mới nghiên
cứu Tử Vi cũng đều có cảm tưởng rằng quả nhiên trong khoa Tử Vi các
chính tinh chính là đại biểu của “ta”).
“Phân biệt” là mục đích của mọi ngành khoa học. Nói nôm na, “phân biệt”
là xác định sự khác biệt. Như khi khảo sát hai thực thể, người nghiên
cứu sẽ tức thì đặt câu hỏi “chúng giống nhau ở điểm gì? khác nhau ở điểm
gì?” Khi khảo sát hai thực thể có vẻ giống nhau, người nghiên cứu phải
hỏi “chúng có thật giống nhau không, chúng có điểm nào khác nhau không?”
Nhìn lại các yếu tố xác định 14 chính tinh, câu hỏi của ta là khoa Tử Vi
đã phân biệt đến tận cùng hay chưa. Câu trả lời là chưa vì cùng can
tháng, chi tháng, ngày, giờ có thể có hai năm khác nhau.
-Tháng khởi ở Giáp Dần có thể là năm Quý hoặc năm Mậu.
-Tháng khởi ở Bính Dần có thể là năm Giáp hoặc năm Kỷ.
-Tháng khởi ở Mậu Dần có thể là năm Ất hoặc năm Canh.
-Tháng khởi ở Canh Dần có thể là năm Bính hoặc năm Tân.
-Tháng khởi ở Nhâm Dần có thể là năm Đinh hoặc năm Nhâm.
Có thể thấy rằng, nhu cầu phân biệt bắt ta phải thêm tác dụng của can
năm vào khi khảo sát các chính tinh. Nói cách khác, bước kế tiếp của ta
là phải tìm cách nào đó phối hợp can năm với các chính tinh. Vì vị trí
chính tinh đều đã định rồi nên can năm chỉ có thể phối hợp với tính chất
của chính tinh. Suy ra can năm phải có tác dụng trên tính chất của
chính tinh, nói cách khác can năm có tác dụng thay đổi tính chất của
chính tinh.
Đó là lý luận sơ khởi dẫn đến bài toán tứ Hóa. Nó cho ta hai kết quả sơ
khởi: Một là tứ Hóa phải được định bằng can năm; hai là tứ Hóa có tác
dụng thay đổi tính chất của chính tinh.
Kết quả thứ nhất trước nay chúng ta chỉ nhắm mắt xử dụng, nhưng bây giờ
thì chúng ta đã tái khám phá ra cái gốc khoa học của nó, tức là chúng ta
hiểu tại sao tứ Hóa phải an bằng can năm, mà không thể bằng chi năm,
can tháng, chi tháng v.v…
Kết quả thứ hai thì có phần “bất thường” so với lối xem Tử Vi truyền
thống của đa số các thầy người Việt, theo đó tứ Hóa là bốn sao quan
trọng, nhưng không có gì đặc biệt hơn các sao khác. Kết quả thứ hai đòi
hỏi ta phải điều chỉnh lại cách xem này, vì tứ Hóa không chỉ giản dị là
bốn sao đóng cùng cung với chính tinh, mà là bốn yếu tố phản ảnh sự đổi
thay tính chất của chính tinh, nên không thể tách rời ra khỏi chính tinh
được.
(Mỗi làng Tử Vi có ưu khuyết điểm khác nhau, nhưng riêng về cách xem tứ
Hóa ưu điểm phải về tay các làng tử vi ngoài Việt Nam, vì họ đã nhìn ra
rằng tứ Hóa là một phần bất khả phân của các chính tinh).
(còn tiếp)
VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC (tiếp theo)
Tại sao là tứ Hóa?
Đồng ý là cần thêm yếu tố của can năm vào bài toán chính tinh, đồng ý là
can năm có tác dụng thay đổi tính chất của chính tinh ta vẫn có thể hỏi
“Nhưng tại sao lại là tứ hóa, tại sao không là bát Hóa, thập Hóa, thập
nhị Hóa, hoặc thập tứ Hóa v.v…?” Câu hỏi này quan trọng, vì nếu 4 hóa
không phải là câu trả lời hợp lý duy nhất, thì tử vi vẫn có vấn đề trầm
trọng khi nhìn dưới nhãn quan khoa học.