Search This Blog
Tuesday, June 12, 2012
Bài đọc thêm!
HÓA DIỆU LUẬN
Hóa diệu trong Tử Vi Đẩu Số, là các sao biến hóa then chốt liên thông các tinh bàn (Thiên bàn và Nhân bàn), nhất là Lưu niên và Đại vận, có các "Lưu hóa diệu" giao hội hỗ tương với hóa diệu của nguyên cục, khiến cho tính chất của tinh hệ hữu quan biến thành phức tạp, cũng chính nhờ như vậy mới luận đoán được cảnh ngộ của đời người khá cụ thể.
Hóa Lộc thông thường có ý nghĩa là "tài lộc"; Hóa Quyền thông thường có ý nghĩa là "quyền thế"; Hóa Khoa thông thường có ý nghĩa là "danh tiếng"; Hóa Kị thông thường có ý nghĩa là "trở ngại". Nhưng mỗi một tinh diệu biến hóa vẫn có ý nghĩa đặc biệt của nó, những ý nghĩa đặc biệt này thường thường là căn cứ để luận đoán.
Lúc luận đoán mệnh cục, chỉ có Tứ hóa của năm sinh, nên khá đơn giản, dễ quan sát. Luận đoán những điểm quan trọng, chỉ cần xem bản thân các sao Tứ hóa có hội hợp hay không? hội hợp ở cung độ nào? thì có thể biết được đại thể.
Lúc luận đoán Đại hạn, chỉ có Tứ hóa của Đại hạn và Tứ hóa của năm sinh, cũng chưa phức tạp mấy, xem các sao hội hợp với chúng cũng không đến mức hoa mắt.
Nhưng khi luận đoán Lưu niên, tổng cộng có 3 nhóm Tứ hóa, có thể cung độ nào cũng có hóa diệu hội chiếu hoặc đồng độ, thường khiến cho người nghiên cứu Đẩu Số hoa cả mắt.
Thực ra, thông thường chỉ cần xem hai nhóm hóa diệu của Đại hạn và Lưu niên; lúc nào tứ hóa của năm sinh bị xung khởi mới cần chú ý, không xung khởi thì tác dụng rất nhỏ.
Tứ hóa của năm sinh cấu tạo thành bản chất thuộc các cung viên, còn Tứ hóa của Đại vận và Lưu niên là hình thành hoàn cảnh của các thời kỳ trong cuộc đời. Do đó tứ hóa năm sinh có ảnh hưởng không lớn đối với hoàn cảnh của các thời kỳ. Điểm này bạn đọc cần hiểu rõ cái lý của nó.
Chỉ khi nào Tứ hóa của năm sinh bị tứ hóa của Đại vận xung hội, hoặc tứ hóa của Lưu niên xung hội, thì tứ hóa của năm sinh mới có tác dụng.
Dưới đây xin đề cử vài ví dụ cụ thể để thuyết minh:
Nếu "Thái dương Thái âm" thủ mệnh tại cung Mùi, người sinh năm Canh thì Thái dương hóa Lộc. Đến Đại hạn Ất Dậu, cung mệnh của Đại hạn là "Thiên cơ Cự môn" mà Thiên cơ hóa Lộc, hội hợp với "Thái dương Thái âm" (mượn sao cung Mùi an cung Sửu) mà Thái âm hóa Kị.
Lúc này, Thiên cơ hóa Lộc xung khởi Thái dương hóa Lộc, càng khiến cho Thiên cơ hóa Lộc có sắc thái "vì phục vụ mọi người mà được lợi ích". Thêm vào Thái âm hóa Kị, là bất lợi về kinh doanh riêng, cho nên lúc này chỉ có thể làm việc cho công ty để kiếm tiền, cá nhân thì không nên đầu tư.
Hóa Lộc ở nguyên cục lại hóa Kị ở Đại vận hoặc Lưu niên, ý là "sao hóa Lộc biến thành sao hóa Kị" (thí dụ như Vũ khúc hóa Lộc của nguyên cục biến thành hóa Kị), cho nên có thể vì tiền mà chuốc họa, hoặc sức kiếm tiền ban đầu giảm nhiều.
Hóa Kị ở nguyên cục, lại Hóa Lộc ở Đại vận hoặc Lưu niên, ý là "sao hóa Kị của nguyên cục biến thành sao hóa Lộc" (ví dụ như Cự môn hóa Kị của nguyên cục biến thành hóa Lộc của Đại vận hay Lưu niên). Cho nên, nhân tố bất lợi ban đầu, vào hạn này có thể nhuyễn hóa thành nhân tố có lợi, nhờ đó mà được tài phú.
Hai ví dụ trên cho thấy sự biến hóa thay đổi có ý nghĩa khi hóa diệu giao hội.
Hóa Lộc luận
Hóa Lộc thuộc âm thổ, cai quản tài lộc. Cho nên ưa có Lộc Tồn tương hội, gọi là "Lộc trùng điệp"; lai ưa gặp "Lộc tồn Thiên mã" gọi là cách "Lộc Mã giao trì".
Hóa Lộc không ưa đến 4 cung Tý Ngọ Mão Dậu, nhất là cung Mão, rất ưa đến các cung Dần, Thân, Hợi, cũng ưa cung tứ mộ Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. Lộc Tồn không đến các cung Tứ mộ, nên ưa Hóa Lộc bổ túc, cần phải có sao Lộc xung khởi mới phát huy được.
Ý nghĩa của Hóa Lộc, thông thường là chỉ "nguồn tiền tài", tức là tính chất và năng lực kiếm tiền, cũng chỉ "cơ hội kiếm tiền".
Trong các tình hình thông thường, không ưa Địa không, Địa kiếp cùng bay đến (bốn cung Tý Ngọ Mão Dậu). Cổ nhân nói "Lộc mà đến cung nhược thì phát mà không chủ về tài", tức là chỉ được hư danh mà không có lợi lộc thực tế.
Hóa Lộc rất ngại gặp Hóa Kị xung phá, cổ nhân nói: "Lộc gặp xung phá, là trong cái tốt có chứa điềm hung". Trong các tình hình thông thường, chủ về tình hình vì kiếm tiền mà sinh tai họa. Ví dụ như vì cầu tài mà xảy ra bất chắc, đầu tư lớn mà không có thu hoạch, dẫn đến không còn vốn để tiếp tục đầu tư. Những trường hợp này, cần phải xem tổ hợp Sao thực tế mà định tính chất.
Hóa Lộc tượng hội với Hóa Quyền và Hóa Khoa, thông thường là kết cấu rất tốt, được gọi là "Tam kỳ gia hội cách", nhưng vẫn cần xem xét tính chất của các Sao bay đến để định nặng nhẹ.
Như cung mệnh "Liêm trinh Thiên tướng", mà Liêm trinh hóa Lộc, có Phá quân hóa Quyền vây chiếu, hội hợp với Vũ khúc hóa Khoa ở cung Sự nghiệp. rõ rằng là lấy Liêm trinh hóa Lộc làm chủ. Bởi vì "Liêm trinh Thiên tướng" chủ về làm việc trong chính giới, hoặc trong công ty có tính phục vụ, bản chất của cung mệnh này, Phá quân hóa Quyền chỉ làm tăng quyền bính về kinh tế, Hóa Quyền Hóa Khoa chỉ trợ giúp cho tình hình cát lợi của cung mệnh, không thể tính là chủ thể.
Hóa Quyền luận
Hóa Quyền thuộc dương mộc, nên phải đề phòng "cây to thì hứng gió". Cũng chính vì vậy, Đẩu Số ưa "Lộc trùng điệp" mà không ưa "Quyền trùng điệp", lúc hóa Quyền gặp hóa Quyền trùng điệp, sẽ dễ chuốc lực áp chế vào "Thân" (ví như Thân bị trói buộc không thực thi được những ý tưởng của Mệnh tạo).
Nếu Hóa Quyền mà không có Hóa Lộc và Hóa Khoa sánh vai, chủ về dễ bị khuynh đảo, bài xích, chèn ép; nếu lại gặp sát tinh, nhất định sẽ xảy ra nhiều tình huống khó xử.
Hóa Quyền được Hóa Lộc sánh vai, chủ về nhờ quyền lực mà đắc lộc, hoặc nhờ "lộc" mà đắc "quyền", nhưng đừng vì thấy "Lộc Quyền gặp nhau" mà xem thường bản chất của Hóa Quyền.
Cổ nhân hay nhấn mạnh Hóa Quyền không sợ Hóa Kị, ý nói lúc Hóa Kị đến xâm phạm, Hóa Quyền dư sức áp chế. Nhưng theo phái Trung châu Vương Đình chi thì có khác, họ cho rằng ý kiến này hơi phiến diện.
Ví dụ như tinh diệu hóa Quyền ở nguyên cục lại bị Hóa Kị ở vận hạn tương xung, tức là "cây lớn thì hứng gió", "địa vị cao thì thế nguy", nhất là lúc "Quyền trùng điệp", bị sao Kị xung phá, chủ về tranh giành quyền lực, nhất là khi nắm được đại quyền, sẽ dễ phạm lỗi lộng quyền.
Nếu Hóa Kị ở nguyên cục hóa làm sao quyền ở vận hạn, thì phải đề phòng lực áp chế, không phải là hỉ sự. Cần phải xem xét kỹ tính chất phối hợp của toàn cục mà định.
Hóa Khoa luận
Hóa Khoa thuộc dương thủy, chủ về "trí", "lưu truyền", nên là "tiếng tăm, danh dự".
Các sách Đẩu Số thông thường cho rằng Hóa Khoa không nên gặp Hóa Kị. Ở thời cổ đại, hóa Khoa chủ về khoa cử công danh, sĩ tử cần phải xuất thân từ khoa cử thì mới dễ hiển đạt, cho nên không ưa Hóa Kị xung hội Hóa Khoa.
Ở thời hiện đại, không còn chuyên về khoa cử mới công danh hiển quý, cho nên lúc hóa Khoa và hóa Kị xung hội, thường thường chủ về nổi tiếng mà chuốc đố kị, có lúc lại chủ về nhiều người biết tiếng. Vương Đình Chi kể, ông từng đoán mệnh cho một vị luật sư, Cự môn hóa Kị ở cung mệnh, bị Thiên cơ hóa Khoa xung hội, vị luật sư nổi tiếng do tài ăn nói và cơ trí ứng biến lúc biện hộ cho thân chủ.
Nhưng thông thường, Khoa Kị tương xung dễ bị nói xấu, chê bai, dị nghị, phỉ báng, cần phải xem bản chất các sao mà định tốt hay xấu. Nếu Thái dương của cung mệnh nguyên cục Hóa Khoa, lại nhập miếu, chủ về người này ắt sẽ có danh tiếng lớn, đến Đại hạn hoặc Lưu niên không thích gặp Thái dương hóa Kị, chủ về vì có danh tiếng lớn mà chuốc điều tiếng thị phi.
Nếu gặp Thiên đồng hóa Kị, thì vì tiếng tăm mà hay gặp phiền phức và bận rộn, nên ít hưởng thụ, dễ sinh bệnh mà thôi.
Phái Trung châu có một bí truyền về Hóa Khoa, như sau:
Cung mệnh Hóa Khoa, người sinh ban ngày, đến cung hạn Thái dương nhập miếu được cát hóa, bất kể là Lưu niên hay Đại hạn, đều chủ về có thanh danh lớn. Nếu đến cung hạn có Thái dương lạc hãm, lại gặp các sao Sát Kị, thì thanh danh bị tổn thương. Cung mệnh Hóa Khoa, người sinh vào ban đêm, đến cung hạn Thái âm nhập miếu được cát hóa, cũng chủ về có danh tiếng lớn. Nếu đến cung hạn có Thái âm lạc hãm, mà gặp các sao Sát Kị, thì chủ về thanh danh bị tổn thương.
Thông thường, hai trường hợp trên, có thể xem các sao hội hợp thực tế mà định chi tiết.
Hóa Khoa thủ cung mệnh, ở cung độ lục hợp, gặp Hóa Lộc (ví dụ như hóa Khoa ở cung Tý, hóa Lộc ở cung Sửu), gọi là "Khoa minh Lộc ám", chủ về nhờ khoa cử công danh, có tiếng tăm mà được quan lộc, hoặc được nâng cao địa vị xã hội. Đây là nhờ danh mà đắc lợi. (có thể so sánh với cách "minh lộc ám lộc", Lộc tồn và hóa Lộc ở cung lục hợp, cũng chủ về quý hiển, đây là nhờ phú mà được quý, khác với cách "khoa minh lộc ám" là nhờ danh mà được quý).
Hóa Khoa không ưa đồng cung với Địa không Địa kiếp, chủ về khuynh gia bại sản, chỉ có hư danh, hoặc có danh vọng trong phạm vi cực nhỏ, cũng chủ về nghiên cứu triết học tôn giáo.
Hóa Khoa đồng độ với Lộc tồn, mà rơi vào cung có Địa không, Địa kiếp, nhất định sẽ bị Kình dương và Đà la giáp cung, vì vậy tuy tốt nhưng không có danh vọng. Đây gọi là "mạ không trổ bông, sao Khoa hãm ở cung hung". Cho nên, các sao hóa thành sao Khoa, mà danh vọng chỉ giới hạn trong phạm vi nhỏ là do nguyên cớ này, lúc luận đoán phải chú ý.
Hóa Kị luận
Hóa Kị thuộc dương thủy, giống Hóa Khoa, vì lời khen và lời nói xấu có cùng một dạng năng lực là quảng bá.
Hóa Kị chủ về sóng gió, trắc trở, tổn thất, thị phi, đố kị; xem các sao hội hợp thực tế mà định tình hình cụ thể.
Hóa Kị ở các cung, phần nhiều đều là hãm địa. Như các cung Dần, Tị, Ngọ, Thân, Dậu, Tuất, Hợi là lạc hãm, chỉ có cung Sửu là nhập miếu.
Nhưng Thái dương và Thái âm của nguyên cục nhập miếu mà hóa Kị, thì lại chủ về cát lợi, giống như "mây trôi che nhật nguyệt", bất quá chỉ bị lu mờ một chút mà thôi. Thái âm hóa Kị ở cung Hợi, Thái dương hóa Kị ở cung Mão, theo phái Trung châu gọi là "biến cảnh", càng chói mắt người ta, nhưng Thái dương không bằng Thái âm.
Thái dương Thái âm ở hãm địa hóa Kị thì không cát tường, làm mạnh thêm sắc thái thị phi tổn thất.
Các sao có tính chất tinh thần ở cung mệnh mà hóa Kị, cũng chủ về đầu óc trầm tĩnh, lạnh lùng. Thiên đồng hóa Kị ở cung Tuất, Cự môn hóa Kị ở cung Thìn, đều có cách "phản bối" (trở mặt).
Vì vậy không được luận đoán đại khái, hễ gặp hóa Kị lập tức cho là Hung. Mệnh cục gặp hóa Kị phải biết xem trọng sự tu dưỡng tinh thần.
Tử vi Đẩu Số luận đoán Lưu niên vận thế, điều then chốt nhất là giỏi vận dụng hóa diệu.
Như đã biết, thông thường hóa Lộc chủ về kiếm được tiền, hóa Quyền chủ về được thế, hóa Khoa chủ về danh dự địa vị, hóa Kị chủ về bị các tình huống khó xử. Người đời không thể thập toàn thập mỹ, cho nên ngoài vị thế, lợi lộc, danh tiếng ra, ắt phải có sao Kị để điểm xuyết hương vị cuộc đời. Người có kiến giải thông đạt, trong lòng sẽ không buồn phiền khi gặp Hóa Kị.
Tình hình gặp Hóa Kị ở rất nhiều loại, tình hình thường gặp nhất là "chuốc đố kị", nhưng "không chuốc đố kị thì phần nhiều là người tầm thường", cho nên gặp Hóa Kị cũng đừng sợ. Một tình hình khác là, xảy ra hiểu lầm không cần thiết với người khác. Hiểu lầm nhau, có lúc chưa chắc là không tốt, nếu người hiểu lầm quá xấu, thì dù có hiểu lầm, ít đi một người bạn xấu cũng hay.
Hóa Kị dễ khiến cho người ta gặp các tình huống khó xử, bị phỉ báng, nói xấu, bêu rếu. Nhưng thị phi tốt xấu rồi cũng có ngày rõ ràng.
Có lúc Khóa Kị chủ về buồn rầu lo lắng. Như cung Phụ Mẫu hóa Kị, thì có thể phải lo lắng cho sức khỏe của cha mẹ, sinh lão bệnh tử là quá trình tất nhiên của đời người, nên trong tình huống này, nên có kiến giải thông đạt một chút.
Hóa Kị cũng chủ về mắc bệnh, tuy nói là phải có kiến giải thông đạt, nhưng rốt cuộc cũng khiến cho người ta đau khổ, vì vậy trước khi sự việc xảy ra, chúng ta nên gìn giữ sức khỏe là hay nhất.
Tình hình nghiêm trọng nhất của hóa Kị là phạm pháp, hoặc bị tai họa tới tấp, nhiều khi nhìn thấy tinh hệ này, người ta thường lo láng cho tương lai. Nhưng giả dụ như biết trước được vận thế, cũng không cần phải quá bất an. nhà Phật cho rằng nghiệp lực có thể nhuyễn hóa, trọng nghiệp vẫn có thể có quả báo nhẹ, chỉ cần giữ cho lòng trung hậu, lấy lòng thành để đối đãi với người, lập thân hành sự không hổ thẹn với lòng, thì có thể xoay chuyển được vận thế.
Cho nên, gặp Hóa Kị, phải xem xét cẩn thận tính chất của hóa Kị, và phải xem trọng tu dưỡng tinh thần, giả dụ như có tính tình phóng túng, lại thường bất chấp mọi người nghĩ gì, mà không nghĩ đến việc tu dưỡng để bổ cứu, lúc những trắc trở ập đến, không được nói là "do số mệnh".
Tuesday, June 5, 2012
SO ĐÔI TUỔI
Tử vi dựa trên Âm Dương
Ngũ hành làm nền tảng
để đưa ra lý thuyết nhân quả.
Xưa nay người Đông phương
có thói quen so đôi tuổi
nam nữ để dự
đoán hôn nhân
tốt xấu thế nào.
Có nhiều trường
phái khác nhau trong cách tính tuổi để dự đoán tương lai, đúng
sai còn tuỳ thuộc nhiều
yếu tố.
Chúng ta không nên quyết đoán số phận
người khác bằng sự
hiểu biết hạn chế
và phiến diện
của mình. Nhiều khi chỉ
vì một lời
phán vu vơ không
căn cứ của
"người thầy" mà dẫn đến hậu quả thảm khốc cho kẻ
cả tin.
1. So đôi tuổi theo Ngữ hành đơn giản:
Người tuổi Giáp lấy người
tuổi nào thì tốt? Người
tuổi Ất lấy người
tuổi nào thì xấu?
Giáp thuộc Mộc
lấy Ất cũng thuộc Mộc
là xấu hay tốt?
Giáp thuộc Mộc
lấy Bính thuộc Hỏa
là xấu hay tốt?
Khái niệm tương
sinh tương khắc trong Tử vi áp dụng vào
so đội tuổi
cũng chỉ là
một khía cạnh hướng
dẫn, không có nghĩa là quyết định.
Nếu chúng ta tin vào một quan điểm nào thì thấy nó
quan trọng vô cùng, nếu không
tin thì lại thấy như
không có.
Lý luận trong Toán
học là thuấn lý
(rational) dễ chấp nhận nhưng
chỉ giải quyết được phần
Lý (reason) không giải quyết được phần
Tình, tình ở đây là trực giác
(intuition).
Theo
quan điểm Triết học Đông phương, lý luận thì
dễ sai, chỉ có trực giác
mới là chính xác.
Dựa vào con số để sắp đặt vật chất
và hợp lý,
dựa vào con số để sắp xếp
tình cảm thì
e rằng khó vậy. Nhưng
có còn hơn không.
Dựa vào Ngũ hành để luận
đoán, là dựa vào
thường nghiệm, chưa chứng minh được rõ ràng
thì cũng chỉ nên
coi đó là những lời
hướng dẫn.
Để luận
đoán thêm phần chính
xác, chúng tôi đi
sâu vào chi tiết bằng biểu
tượng của các hành.
2.
So đơi tuổi chi tiết qua biểu tượng của các hành.
Theo
nguyên tắc Ngũ
hành sinh khắc :
Sinh
thì tốt
Khắc thì xấu
Nhưng người có hành sinh nhập thì có lợi hơn là sinh xuất, người có hành khắc xuất thì có lợi là
khắc nhập.
Tuy
nhiên hành sinh phải đủ mạnh
mới có tác dụng, hành
khắc quá yếu thì
cũng chẳng gây
tai họa bao nhiêu.
Chồng mạng Kim khắc
vợ mạng Mộc, Kim Khắc
Mộc, nói chung thì không tốt.
Nhưng xét kỹ hơn,
chi tiết hơn thì có nhiều trường
hợp đáng lưu tâm.
Thí dụ về tương khắc :
Chồng là Kiếm phong Kim, khắc
vợ là Dương liễu
Mộc thì thật đáng
ngại vì đây là
hình ảnh cây
kiếm chém vào cây liễu,
cây phải đổ.
Nhưng nếu chồng
là Thoa xuyến kim, vàng đồ trang sức,
mà khắc vợ
là Tùng bách mộc thì
liệu một đôi bông
tai bằng vàng có thể chặt
ngã một cây Tùng
cổ thụ được không?
Cho nên đi sâu vào
chi tiết các hành mới thấy
hợp lý và cái vô lý
trong việc áp dụng phiến diện qui tắc Ngũ hành nhiều khi gây đổ vỡ
tang thương.
Thí dụ về tương sinh :
Chồng mạng Kim, vợ
mạng Thủy, Kim sinh Thủy.
Nếu là Sa trung kim và Đại khuê
Thủy, vàng trong cát nằm sâu
dưới nước suối lớn thì đẹp biết bao.
Nhưng nếu chồng
là Bạch lạp
kim, vợ là Đại hải
Thủy, thì vàng trong nến mà sinh cho nước biển lớn thì
phỏng được ích
gì không?
Cho nên đừng sợ
chuyện sinh khắc Ngũ hành. Nhiều khi khắc
lại đẹp hơn
sinh như những trường hợp nêu trên. Cần tra cứu
ý nghĩa chi tiết của các
hành trong bảng Lục thập
Hoa Giáp về Tuổi và
Hành) để rộng
đường suy luận,
để đủ sáng suốt quyết
định sau khi nghe các
thầy hướng dẫn về đôi tuổi.
Sau đây chúng
tôi xin tóm tắt cách
so đôi tuổi
chi tiết theo Ngũ hành
a.
Tuổi tương sinh :
Hành của Mệnh
đôi tuổi
sinh ra nhau, thì sự kết hợp
vui vẻ hạnh phúc, nhiều hay ít
còn tùy thuộc
vào tính chất cụ
thể của mỗi hành.
1.
Mạng Kim
- Tuổi Giáp Tí Hải trung Kim
- Tuổi Ất Sửu
Vàng dưới biển
- Tuổi Nhâm Thân
Kiếm phong Kim
- Tuổi Quí Dậu Vàng
bọc mũi kiếm
- Tuổi Canh Thìn Bạch lạp
Kim
- Tuổi Tân Tỵ
Vàng trong nến trắng
- Tuổi Giáp Ngọ Kim bạc
Kim
- Tuổi Quí Mão Vàng
mạ kim loại
- Tuổi Canh Tuất Thoa xuyến Kim
- Tuổi Tân Hợi
Vàng đồ trang sức
- Tuổi Giáp Ngọ Sa trung Kim
- Tuổi Ất Mùi
Vàng trong cát
2.
Mạng Thủy
- Tuổi Bính Tí Giản hạ
Thủy
- Tuổi Đinh Sửu Nước
dưới khe
- Tuổi Giáp Thân Tuyền
trung Thủy
- Tuổi Ất Dậu
Nước dưới suối
- Tuổi Nhâm Thìn
Trường lưu Thủy
- Tuổi Quí Tỵ Nước
sông lớn
- Tuổi Bính Ngọ Thiên
hà Thủy
- Tuổi Đinh Mùi Nước sông
trên trời (Mưa
lớn)
- Tuổi Giáp Dần Đại khê Thủy
- Tuổi Ất Mão
Nước khe lớn
- Tuổi Nhâm Tuất
Đại hải
Thủy
- Tuổi Quí Hợi Nước
biển lớn
Kim
sinh Thủy
Kim là vàng, có nhiều loại
:
a)
Vàng dưới biển, kết hợp với :
- Nước biển lớn, là
hình ảnh kết
hợp to lớn, hùng vĩ giữa đôi bên, tượng trưng
cho sự phồn thịnh lớn
lao.
- Nước sông trên
trời, cũng là một kết
hợp lớn, nhưng phải chờ một
thời gian chung sống có hiệu quả,
ví như phải
chờ trời mưa lớn.
- Nước dưới khe.
- Nước trong hốc mũi.
- Nước dưới suối.
- Nước sông lớn.
cũng là những sự
kết hợp đầm ấm
vui vẻ nhưng phải chờ đợi kiên trì, lâu rồi
sẽ được hưởng
ví như nước
chảy từ khe sông rồi mới
trở về biển.
Vàng bọc mũi kiếm
thì ít ỏi, chỉ
để tô
điểm cây
kiếm cho thêm phần quí
phái, chẳng có
liên quan đến các
mạng Thủy là bao!
Kết hợp này
e là hình thức lễ
nghi bề ngoài.
c)
Vàng trong nến trắng
lại càng hi hữu (hiếm
có).
Kết hợp này
là hình ảnh tượng
trưng quí tộc.
d)
Vàng lẫn trong cát
e)
Vàng mạ kim loại
Kết hợp với
mạng Thủy nào cũng là làm đẹp, trang sức
cho nhau.
Đãi cát
lấy vàng, là hình ảnh chịu
thương chịu khó.
Kết hợp với
:
- Nước dưới khe
- Nước dưới suối
- Nước trong hốc núi
- Nước dưới sông
lớn
Quả là kỳ công vất
vả nhưng đáng quí, thành đạt chậm
nhưng bền vững.
Là vàng dát mỏng mạ
lên kim loại.
Kết hợp với
mạng Thủy nào cũng được, mục
đích là làm đẹp không
có thực chất.
f)
Vàng trong đồ trang sức
Chỉ là kim loại quí để trang sức làm đẹp lòng
nhau.
3.
Mạng Mộc
- Tuổi Mậu Thìn
Đại lâm
Mộc
- Tuổi Kỷ Tỵ
Cây gỗ lớn trong rừng
- Tuổi Nhâm Ngọ
Dương liễu Mộc
- Tuổi Quí Mùi Gỗ trong cây
liễu
- Tuổi Canh Dần Tùng Bách Mộc
- Tuổi Tân Mão
Gỗ cây Tùng Bách
- Tuổi Mậu Tuất
Bình địa Mộc
- Tuổi Kỷ Hợi
Cây gỗ ở đồng bằng
- Tuổi Nhâm Tí
Tang đố Mộc
- Tuổi Quí Sửu Gỗ
trong cây dâu
- Tuổi Canh Thân Thạch lựu
Mộc
- Tuổi Tân Dậu
Gỗ trong cây lựu
a)
Nước trong khe
Nước dưới suối
Nước trong hốc núi (khe lớn)
- Cây dâu
- Tuổi Bính Thân Sơn
hạ Hỏa
Kết hợp với
:
- Cây gỗ lớn
trong rừng
- Cây liễu
- Cây lựu
Đều là
kết hợp hài hòa, nuôi dưỡng
cây cho xanh tốt, là hình ảnh kết
hợp nhẹ nhàng hòa thuận.
b)
Nước sông trên trời
- Cũng tốt cho cây
cối.
- Là sự kết
hợp lớn lao nhưng cũng dễ làm
hư cây nhỏ như
cây liễu, cây dâu,
cây lựu.
- Là hình ảnh kết
hợp có đụng chạm
nhiều lúc phũ phàng.
c)
Nước biển lớn
thì chẳng giúp
ích bao nhiêu cho các cây ở
đồng bằng,
đây là
sự kết hợp có
hình thức phong cảnh
hữu tình.
4.
Mạng Hỏa
- Tuổi Bính Dần Lư
trung Hỏa
- Tuổi Đinh Mão Lửa
trong lò
- Tuổi Giáp Tuất Sơn
đầu Hỏa
- Tuổi Ất Hợi
Lửa đầu núi
- Tuồi Mậu Tí
Tích lịch Hỏa
- Tuổi Kỷ Sửu
Lửa sấm sét
- Tuổi Đinh Dậu Lửa
dưới chân núi (khí đất)
- Tuổi Giáp Thìn Phú đăng Hỏa
- Tuổi Ất Tỵ
Lửa ngọn đèn lớn (đuốc)
- Tuổi Mậu Ngọ
Thiên thượng Hỏa
- Tuổi Kỷ Mùi
Lửa trên trời (lửa
mặt trời)
Mộc dưỡng Hỏa
a)
Gỗ cây lớn trong rừng
- Gỗ cây dâu
- Gỗ cây lựu
- Gỗ cây liễu
- Gỗ cây ở
đồng bằng
đều có
thể dùng nhóm lò, kết hợp
với
- Lửa trong lò
- Lửa ngọn đèn
lớn (đuốc)
là kết hợp
hữu ích cho đôi bên,
mang lại ánh sáng cho nhau.
Nhưng chẳng có lợi ích
gì cho :
- Lửa sấm sét
- Lửa mặt trời
May
ra còn có ích cho :
- Lửa đầu núi
- Lửa chân núi
để đốt lửa trại
sưởi ấm lóng khách tha phương, là hình ảnh kết
hợp đôi bên
nơi xa quê nhớ nhà.
5.
Mạng Thổ
- Tuổi Canh Ngọ Lộ Bàng
Thổ
- Tuổi Tân Mùi
Đất giữa
đường
- Tuổi Mậu Dần
Thành đầu Thổ
- Tuổi Kỷ Mão
Đất mặt
thành (lỗ châu
mai)
- Tuổi Bính Tuất Ốc
thượng Thổ
- Tuổi Đinh Hợi Đất (cát bụi) trên
nóc nhà
- Tuổi Canh Tí Bích thượng Thổ
- Tuổi Tân Sửu
Đất trên
vách tường
- Tuổi Mậu Thân
Đại dịch
Thổ
- Tuổi Kỷ Dậu
Đất đồng bằng lớn
(trảng)
- Tuổi Bính Thìn Sa trung Thổ
- Tuổi Đinh Tỵ Đất lẫn trong cát
Hỏa sinh Thổ
a)
Lửa mặt trời
kết hợp với :
- Đất giữa
đường
- Đất đồng bằng lớn
là sự kết
hợp hữu ích, làm khô rắn
đất, là
hình ảnh kết
hợp mang lại hạnh phúc
lâu bền cho nhau.
b)
Lửa sấm sét
thì quá dữ dằn
và phát ra tùy lúc, làm rung chuyển lắng đọng vàng trong đất, làm
sạch bụi bẩn.
kết hợp với
:
- Đất đồng bằng
- Đất giữa
đường.
Có lẽ có
lợi về mặt lâu
dài tạo được tĩnh điện, là
hình ảnh tạo
dựng vốn liếng cho con cháu.
Kết hợp với:
- Đất trên
mặt thành.
- Đất trên
vách tướng.
Có lẽ chỉ
để rũ
sạch bụi bám là hình ảnh sửa
sang tư cách cho nhau nhiều hơn là
giàu cho nhau.
c)
Lửa trong lò
Kết hợp với
mạng Thổ nào cũng là ít ỏi, là
hình ảnh sưởi
ấm lòng nhau, ví như cơm
lành canh ngọt.
d)
Lửa trong lò
- Lửa chân núi.
- Lửa ngọn đèn
lớn.
Kết hợp với
mạng Thổ nào cũng chỉ đủ soi sáng đường đi
cho nhau, là hình ảnh chung sống
hòa bình.
b.
Tuổi tương khắc:
Kim
khắc Mộc
Kim có sắc bén
mới chặt được cây
gỗ, hoặc để phá
bỏ, hoặc làm thành vật dụng
để dùng.
a)
Vàng bọc mũi kiếm
Có thể chặt
được các
cây nhỏ.
Kết hợp với:
- Gỗ cây liễu
- Gỗ cây lựu
- Gỗ cây dâu
Có thể gây
xích mích, đổ vỡ
đau lòng.
Nhưng vàng bọc mũi
kiếm chỉ dùng để khắc
lên cây lớn
những kỷ niệm yêu
đương, nhắc
nhở đau thương mà
thôi.
b)
Vàng dưới biển
- Vàng trong nếu trắng
- Vàng trong cát
- Vàng đồ trang sức.
Thì chẳng liên
quan gì đến cây gỗ
(mạng Mộc) cả.
c)
Vàng mạ kim khí
thì chẳng làm
hại cây gỗ nào
cả, nhiều khi còn dùng để sơn
son thếp vàng tô điểm cho mạng
Mộc có bề ngoài
sung túc hơn.
Thủy khắc Hỏa
a)
Nước dưới khe
- Nước dưới suối
- Nước trong hốc núi (khe lớn)
Kết hợp với:
- Lửa ngọn đèn
lớn (đuốc)
- Đất lẫn
trong cát
- Lửa trong lò
- Lửa dưới chân
núi
Cũng chẳng gây
tai họa gì lớn lao mà
nhiều khi còn giúp cho kẻ tha hương
có đủ lửa
đun ly nước suối
uống cho ấm lòng, là hình ảnh đụng chạm dễ thương.
b)
Nước sông lớn trên trời (mưa lớn)
Kết hợp với
- Lửa trong lò.
- Lửa ngọn đèn
lớn (đuốc).
- Lửa đầu núi.
- Lửa chân núi.
mới làm tắt bếp,
tắt đèn chiếu sáng
cần thiết cho lứa đôi, khiến
phải sống trong tối tăm, khó
khăn.
c)
Nước sông lớn
- Nước biển lớn.
Kết hợp với
các mạng Hỏa
đều là
nguy hiểm, nước sông dâng
cao, nước biển tràn vào bờ đều có nguy cơ lụt lội
làm tắt bếp
lửa, đèn soi, là hình ảnh đáng
ngại của sự tranh chấp,
bắt nạt lẫn nhau,
có thể đi
đến tan vỡ.
Thổ khắc Thủy
a)
Đất giữa đường
- Đất đồng bằng lớn
(trảng)
Kết hợp với:
- Nước dưới khe
- Nước dưới suối
- Nước hốc núi
- Nước sông lớn
có thể làm
khô cạn suôi, khe, hốc
núi làm hẹp lòng
sông lớn, là hình ảnh gây
trở ngại cho nhau trong cuộc sống chung, có
thể dẫn đến khô
cạn hạnh phúc lứa đôi.
b)
Đất trên mặt thành
- Đất trên
nóc nhà
- Đất trên
vách tường.
thì hút nước có
là bao, họa chăng
chỉ làm rêu mốc bám
đầy, là
hình ảnh cuộc
sống chung dễ trở nên
cũ kỹ, tẻ
nhạt mà thôi.
C.
Tuổi tương hòa
là hai tuổi có
mạng hành giống nhau như
Kim với Kim, Mộc với Mộc.
Hòa thì có thể tót
có thể xấu
1.
Mạng Kim kếp hợp mạng Kim
a)
Vàng dưới biển
kết hợp với:
- Vàng trong cát
- Nước dưới suối
b)
Nước dưới khe:
là sự kết
hợp tốt đẹp, cát
chảy ra biển, lắng vàng
xuống đáy, là hình ảnh cộng
sinh hòa hợp làm
giàu.
b)
Vàng mạ kim loại
kết hợp với
- Vàng đồ trang sức
là sự kết
hợp phô trương bề
ngoài, giàu sang ngoài mặt, nặng
về hình thức
kết hợp với
:
- Vàng trong nếu trắng.
là hình ảnh hai giới
quí tộc kết
thân, để giữ
vẻ giấu rách giữ lấy
lề, thực sự có
thể là không giàu
được, đồng sàng dị mộng
có thể là đây!
Ngoài ra thì các mạng Kim khác
kết hợp với nhau thì
chẳng hay cũng chẳng dỡ.
Đừng sợ
câu quyết người xưa
bịa đặt: “Lưỡng
kim kim thuyết” (hai
Kim chập nhau thì hao mòn!), ví như vàng
trong
cát làm sao lại hại
được vàng
bọc mũi kiếm (?)
2.
Mạng Thủy kết hợp mạng Thủy
a)
Nước chảy dưới khe hợp với:
- Nước trong hốc núi (khe lớn)
thì thành con thác lớn, là
hình ảnh kết
hợp phồng thịch.
- Nước trong hốc núi.
- Nước dưới suối.
kết hợp với
nước sông lớn thì
giàu sang lớn.
c)
Nước song trên trời (mưa lớn)
kết hợp với:
- Nược biển lớn
thì lụt lội
to, là hình ảnh hai bên
đều quá
mạnh mẽ về tiền
của và danh vọng, dễ
đi đến giành
giựt quyền hành lẫn nhau, như
tức nước vỡ bờ!
Cái gì thái quá đều là
nguy hiểm.
Ngoài ra các mạng Thủy
khác kếp hợp
lẫn nhau đều là
tốt cả.
Cậu quyết: “ Lưỡng Thủy đại hải”
(hai
sông gộp thành biển lớn)
là có lý vậy.
3.
Mạng Mộc kết hợp mạng Mộc
Nhiều cây cây
gỗ nhỏ gom lại thành rừng lớn
tượng trưng sự phồn
thịnh.
a)
Gỗ cây liễu
- Gỗ cây dâu
- Gỗ cây lựu
Kết hợp với
nhau đều tốt đẹp, tạo thêm
sức mạnh, là hình ảnh giàu
sang, phú quí.
b)
Gỗ cây đồng bằng
- Gỗ cây Tùng
Bách
- Gỗ cây lớn
trong rừng.
Kết hợp với
nhau đều tốt đẹp, tạo thêm
sức mạnh, là hình ảnh giàu
sang, phú quí.
Câu quyết người xưa
vẫn nói:
“Lưỡng Mộc thành lâm” (Hai cây
gom làm thành rừng) ở
đây lại
đúng vậy.
Nhưng cây nhỏ
chẳng nên sống gần
cây cổ thụ, vì
sẽ bị cây lớn
giành hết màu
mỡ của đất, tranh hết
ánh sáng mặt trời,
cho nên sẽ èo ọt lụi
tàn.
c)
Gỗ cây liễu
- Gỗ cây dâu
- Gỗ cây lựu
Chẳng nên sống chung với:
- Gỗ cây Tùng
Bách
- Gỗ cây lớn
trong rừng.
Kết hợp với
nhau, e rằng cây nhỏ sẽ
bị đẹt đi,
là hình ảnh lứa
đôi mất
cân xứng, một kẻ ngày
lớn mạnh, kẻ kia dần dần lụi
tàn
d)
Gỗ cây đồng bằng
thì kết hợp
với cây lớn, cây
nhỏ đều tốt
cả, có nghĩa là thích hợp với
bất cứ mạng Mộc
nào.
4.
Mạng Hỏa kết hợp mạng Hỏa
a)
Lửa đầu núi
kết hợp với:
- Lửa chân núi
là sự kết
hợp bình đẳng, môn
đăng hậu đối, gia đạo bình
yên, sưởi ấm
lòng nhau.
b)
Lửa trong lò
kết hợp với
- Lửa ngọn đèn
lớn (đuốc)
cũng là sự kết
hợp hài hòa, tỏa sáng,
sưởi ấm gia đình, là hình ảnh lứa
đôi hòa
thuận xây đắp cùng
nhau.
c)
Lửa sấm sét.
Kết hợp với
- Lửa mặt trời
là sự kết
hợp bên giàu sang lớn, nhưng đổ vỡ
cũng lớn, nếu
hai bên cung muốn tỏ ra hơn
người.
Câu quyết: “ Lưỡng Hỏa thành viêm” (hai nguồn lửa kết
thành đám cháy lớn) ở
đây cũng
có lý vậy.
d)
Lửa sấm sét
kết hợp với
- Lửa đầu núi
- Lửa chân núi
Cũng là kết hợp
hữu ích, là hình ảnh của
người mạnh ra tay nâng đỡ kẻ
yếu để gánh
vác chung việc gia đình.
e)
Lửa trên trời (lửa mặt trời)
thì kết hợp với dạng lửa nào mạng Hỏa nào cũng là ích cả, ngoại trừ với Lửa ngọn đèn lớn thì làm
phai
mờ ánh sáng của bó đuốc nhưng vẫn không sao!
5. Mạng Thổ kết hợp mạng Thổ
Đất thì
cần dầy dặn mới
có màu mỡ
Người có rắn chắc
mới có sức khỏe
a)
Đất trên mặt thành
- Đất trên
nóc nhà
- Đất trên
vách tường
- Đất lẫn
trong cát
Là 4 dạng đất mỏng manh không
có màu mỡ, có
kết hợp với nhau cũng
chẳng đủ xây
nổi một mái nhà là hình ảnh kết
hợp nghèo nàn, có đi với các
mạng Thổ khác cũng chẳng giúp
được ích
gì.
b)
Đất đồng bằng
lớn
- Đất giữa
đường
là có chiều dày,
giúp ích cho người qua lại, nuôi dưỡng cho cây
mọc cao.
Hai
loại đất này
kết hợp với nhau là
hình ảnh giàu
sang bền vững, lợi ích thực tiễn
lâu dài.
Câu quyết: “ Lưỡng Thổ thành sơn” (Hai mô
đất lớn
gộp thành núi cao cũng có lý vậy).
Ngoài ra, đất giữa
đường và đất đồng bằng
có kết hợp
với các dạng khác
cũng chẳng có
tác dụng
gì.
- Đất trên
vách tường
- Đất lẫn
trong cát
Là 4 dạng đất mỏng manh không
có màu mỡ, có
kết hợp với nhau cũng
chẳng đủ xây
nổi một mái
nhà là hình ảnh kết
hợp nghèo nàn, có đi với các
mạng Thổ khác cũng chẳng giúp
được ích
gì.
3.
So đôi tuổi bằng Phương thức PHÁ, HỢP, XUNG.
Phá là làm khổ nhau
Hợp là yêu thương nhau
Xung
là chống đối nhau
Phá hợp Xung chỉ
có ý nghĩa chung thế thôi, chứ
kết hợp chẳng gây
tai hại hoặc chết chóc
cả.
Subscribe to:
Posts (Atom)